Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam

Trong lịch sử tồn tại của mình, Nho học trải qua quá nhiều thăng trầm, lúc được đề cao đến tận mây

xanh, lúc bị vùi dập không thương tiếc. Về chủ quan, có mâu thuẫn trong việc xác định tính giá trị của

Nho học có nguồn gốc từ sự đa dạng phức tạp về các biến thể của Nho học. Về khách quan, mâu thuẫn

này có nguồn gốc từ sự đa dạng các nhu cầu của đối tượng sử dụng. Đề cao hay hạ thấp thì cũng đều bắt

nguồn từ bản chất hướng đến sự ổn định của Nho học. Để phục vụ cho mục tiêu ổn định do loại hình

văn hóa quy định, triết lý giáo dục truyền thống nhằm đào tạo ra những người thừa hành mà phẩm chất

quan trọng là biết vâng lời chứ không phải là sáng tạo. Nho học với chủ trương coi trọng lễ nghĩa thái

quá chính là công cụ đắc lực để hiện thực hóa triết lý giáo dục này. Muốn thoát khỏi sự trì trệ để phát

triển cần chuyển đổi hệ giá trị theo hướng văn hóa thiên về dương tính, thay đổi triết lý giáo dục từ đào

tạo người thừa hành sang đào tạo người sáng tạo.

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam trang 1

Trang 1

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam trang 2

Trang 2

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam trang 3

Trang 3

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam trang 4

Trang 4

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam trang 5

Trang 5

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam trang 6

Trang 6

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 2180
Bạn đang xem tài liệu "Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam
bình”. 
Bởi vậy mà ở trong vùng văn hóa 
Đông Á, những thời đại nào, những đối 
tượng sử dụng nào đã giành được chính 
quyền và muốn ổn định, muốn giữ yên ngai 
vàng, duy trì sự thống trị thì thường đều đề 
cao Nho học. Mà trong lịch sử Đông Á thì 
loại đối tượng này chiếm đa số. 
TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
5 
1.2.2. Phủ định Nho học vì lý do khách 
quan chỉ có một trường hợp là khi người ta 
có nhu cầu phá bỏ sự ổn định truyền thống, 
cần làm cách mạng để thay đổi xã hội. Ở 
Trung Quốc việc này xảy ra hai lần. 
Lần thứ nhất là cuộc “cách mạng văn 
hóa” đầu thế kỷ XX dưới ảnh hưởng của 
phong trào “Ngũ Tứ” với lãnh tụ là Lỗ 
Tấn. Tháng 4/1918, ông công bố tiểu 
thuyết “Nhật ký người điên” với câu nói 
gây ấn tượng nhất là: “Lịch sử... trang nào 
cũng có mấy chữ “nhân nghĩa đạo đức”... 
cầm đọc kỹ... mới thấy từ đầu chí cuối, ở 
giữa các hàng, là ba chữ ăn thịt người”. 
Lên án tư tưởng Khổng-Mạnh là lễ giáo 
“ăn thịt người” thì đúng là không thể nặng 
hơn, nhưng đó là cách lấy văn chương làm 
vũ khí, nói quá lên để đạp đổ cái cũ nhằm 
kêu gọi quần chúng làm cách mạng; nó 
không thể được đánh giá theo kiểu một 
công trình khoa học rằng “Những níu kéo, 
cản trở của Nho giáo trong xã hội hiện đại 
được phân tích, phải nói là, khó có thể sâu 
sắc hơn” (Hồ Sĩ Quý, 2009, tr.49). 
Lần thứ hai là cuộc “cách mạng văn 
hóa” do Mao Trạch Đông cầm đầu, mà một 
trong những nội dung cơ bản là “Phê Lâm 
đấu Khổng” với lý do Khổng giáo là thế lực 
phong kiến bảo thủ, triệt tiêu sự tiến bộ, 
khiến dân tộc Trung Hoa rơi vào trì trệ suốt 
hai ngàn năm. Nằm sâu xa bên trong là mục 
tiêu của Mao Trạch Đông muốn giành lại 
địa vị bị lung lay sau hàng loạt sai lầm 
trong đường lối quản lý đất nước vào cuối 
những năm 1950, đầu những năm 1960. 
2. Vai trò của Nho học, văn hóa và 
triết lý giáo dục trong sự phát triển 
2.1. Nho học hay là văn hóa? 
2.1.1. Trong lịch sử cận hiện đại, Việt 
Nam đã hai lần đã bỏ lỡ cơ hội canh tân đất 
nước. Lần thứ nhất là vào thời nhà Nguyễn, 
lần thứ hai là vào đầu thời kỳ Đổi mới gần 
đây. Có ý kiến cho rằng Nho học với tính 
bảo thủ, hướng đến sự ổn định là nguyên 
nhân dẫn đến bi kịch hai lần “bỏ lỡ cơ hội” 
này. Chúng tôi cho là không phải. Có thể 
nêu ra ba câu hỏi để phản bác: 
Thứ nhất, cùng chịu ảnh hưởng của 
Nho học, tại sao trong khi Việt Nam trên 
một lần bỏ lỡ cơ hội, thì Nhật Bản lại canh 
tân được sớm thế? 
Thứ hai, tại sao ở chính cái nôi của 
Nho học, người Trung Quốc cũng đã tiến 
hành những cải cách mạnh mẽ từ cuối 
đời Thanh? 
Thứ ba, tại sao trên cùng một bán đảo 
mà trong khi Hàn Quốc ở phía Nam tiếp 
tục bảo tồn các di sản Nho học thì đất nước 
phát triển rực rỡ, nhân dân hạnh phúc; còn 
Triều Tiên ở phía Bắc từ bỏ Nho học thì 
lạc hậu, đói nghèo? 
2.1.2. Như vậy, do mang bản chất 
hướng đến sự ổn định, Nho học có thể góp 
phần gây nên sự trì trệ, nhưng nó không 
phải là nguyên nhân chính. Trì trệ hay phát 
triển, nguyên nhân chính nằm ở loại hình 
văn hóa. Xét theo không gian, phương Tây 
thuộc loại hình văn hóa thiên về dương tính, 
Đông Nam Á thuộc loại hình văn hóa thiên 
về âm tính, còn Đông Bắc Á thuộc loại 
hình văn hóa trung gian trọng thế tục (khác 
với Tây Nam Á thuộc loại hình văn hóa 
trung gian trọng tâm linh) (Trần Ngọc 
Thêm, 2013, tr.85-90; 2016, tr.103-116). 
Phương Tây thuộc loại hình văn hóa 
thiên về dương tính, nên sự thay đổi giá trị 
trong lịch sử diễn ra khá thường xuyên. Từ 
thế kỷ XV trở lại đây, mọi sự biến động hệ 
giá trị đều khởi đầu từ phương Tây hoặc là 
hậu quả của các sự kiện xảy ra ở phương 
Tây: các cuộc phát kiến lớn về địa lý vào 
cuối thế kỷ XV; những thành tựu về văn 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) 
6 
hóa và khoa học – giáo dục thời Phục 
hưng và Khai sáng; các cuộc cách mạng 
công nghiệp, cách mạng xã hội và sự hình 
thành chủ nghĩa tư bản phương Tây; sự 
phát triển của chủ nghĩa thực dân và chủ 
nghĩa đế quốc; sự ra đời của phong trào 
cộng sản và sự đối đầu giữa hai phe; 
những thành tựu về viễn thông và công 
nghệ tin học; sự sụp đổ của phe xã hội chủ 
nghĩa và quá trình toàn cầu hoá, v.v. 
Phương Tây thay đổi trước, thay đổi một 
cách thành công, và kéo theo sự thay đổi 
của phần thế giới còn lại. Dễ hiểu là trong 
quá trình thay đổi, phần thế giới còn lại sẽ 
lấy phương Tây làm hình mẫu. 
Đông Bắc Á thuộc loại hình văn hóa 
trung gian trọng thế tục, nên tuy có biến 
động khá mạnh, nhưng nhìn chung là thuận 
lợi và nhẹ nhàng. Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Đài Loan chuyển đổi sớm và rất thành 
công chính là nhờ tính trung gian trọng thế 
tục này. Do có phần lớn dân số là người 
gốc Hoa nên Singapore thực chất là một 
quốc gia Đông Bắc Á ở Đông Nam Á. Loại 
hình văn hóa chính là khái niệm “cần” và 
“đủ” cho việc lý giải sự thành công của 
Đông Bắc Á (Trần Ngọc Thêm, 2013, 
tr.331-341). 
Trong khi đó thì Đông Nam Á, do 
mang bản chất âm tính (trái ngược hẳn với 
phương Tây), nên hệ giá trị truyền thống có 
độ ổn định rất cao. Bởi vậy, đến lúc tiếp 
xúc giao lưu với phương Tây và hội nhập 
quốc tế, đây là nơi hệ giá trị có biến động 
mạnh nhất và trong quá trình biến đổi gặp 
khó khăn nhiều nhất. 
2.1.3. Bên cạnh sự khác biệt về loại 
hình văn hóa, sự khác biệt về cách thức 
quản lý và tổ chức xã hội là nguyên nhân 
thứ hai. 
Văn hóa Việt Nam do âm tính, lấy ổn 
định làm đầu nên bất kỳ ai, mỗi khi đạt đến 
được một thành công nào đó, một sự ổn 
định nào đó thì đều chỉ muốn “dĩ hòa vi 
quý” để giữ lấy sự ổn định ấy, không muốn 
tiếp tục đổi mới để khỏi phải mạo hiểm hy 
sinh thành quả đã đạt được của mình. 
Đây chính là lý do giải thích vì sao 
Nguyễn Ánh khi còn phải chống lại Tây 
Sơn thì hăng hái mở cửa, tích cực hướng 
về phương Tây, còn khi có được đất nước 
trong tay, trở thành Gia Long thì nhanh 
chóng chuyển sang chính sách ngược lại là 
bế quan tỏa cảng, xa lánh phương Tây, trở 
về lấy Nho giáo làm chỗ dựa. Sự chi phối 
của cách sống này đã dẫn đến việc Vua Gia 
Long quyết định sẽ truyền ngôi cho con 
thứ là Nguyễn Phúc Đảm (Minh Mạng), 
người ra sức đề cao Nho giáo và ra mặt 
chống lại phương Tây để giữ ổn định, chứ 
không phải cho dòng đích là Nguyễn Phúc Mỹ 
Đường – con trai cả của hoàng tử Cảnh, người 
chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây. 
Những người có tư tưởng đổi mới, 
thân phương Tây đều bị thất sủng: bản 
thân Hoàng tử Cảnh được công bố là chết 
vì bệnh đậu mùa, nhưng theo các thừa sai 
trong triều đình (trong báo cáo về Hội 
truyền giáo Paris) thì thực chất là ông bị 
đầu độc; hai Tổng trấn Nguyễn Văn Thành 
và Lê Văn Duyệt từng ủng hộ Nguyễn 
Phúc Mỹ Đường thì một bị bức tử, một bị 
phá hoại lăng mộ sau khi mất. Bản 
thân Nguyễn Phúc Mỹ Đường bị vu oan là 
thông dâm với mẹ và hai mẹ con bị trói 
dìm nước cho đến chết. 
Triều đình Minh Mạng, sau đó là Tự 
Đức, với những quan văn mang nặng tư 
tưởng Tống Nho luôn khăng khăng bài 
xích mọi ý tưởng Âu hóa và chống đối 
quyết liệt mọi sáng kiến cải cách. Hệ quả 
là, những đề xuất cải cách toàn diện, khoa 
TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
7 
học và tiến bộ (như của Nguyễn Trường 
Tộ) đã không được tiếp thu. 
2.2. Văn hóa và triết lý giáo dục 
2.2.1. Văn hóa Việt Nam trồng lúa 
nước mang bản chất trọng âm, hướng đến 
ổn định, sinh ra tính cộng đồng làng xã, 
nên nền giáo dục Việt Nam truyền thống 
có sứ mệnh xây dựng một xã hội ổn định 
và mục tiêu đào tạo ra những con người có 
những phẩm chất và năng lực đáp ứng nhu 
cầu ổn định này. 
Một xã hội ổn định cần những con 
người với phẩm chất hàng đầu phải là 
ngoan ngoãn, biết vâng lời – đó là những 
con người thừa hành, con người công cụ. 
Bởi vậy, triết lý giáo dục dân gian Việt 
Nam truyền thống có thể tóm gọn trong 
bốn chữ cửa miệng mà mọi người Việt 
Nam, mọi trường học Việt Nam thường 
dùng, là “con ngoan, trò giỏi”. Về câu chữ 
thì cụm từ “con ngoan, trò giỏi” có thể xem 
là rất tốt, nhưng về nghĩa thì “ngoan” 
thường được hiểu là biết vâng lời ( Con 
cãi cha mẹ trăm đường con hư), “giỏi” 
thường được hiểu là học thuộc bài (câu cửa 
miệng cha mẹ hỏi con cái khi đang học 
hoặc sau khi học thường là “Con đã học 
thuộc bài chưa?”) – thành ngữ “con ngoan, 
trò giỏi” chính là biểu hiện của một triết lý 
giáo dục hướng đến ổn định. Triết lý giáo 
dục này khuyến khích tâm lý háo danh chứ 
không phải là hiếu học, hành động làm 
theo người khác chứ không phải là bản lĩnh 
để suy nghĩ độc lập, sáng tạo; sinh ra thói 
cào bằng, không chấp nhận người giỏi hơn 
mình, có tư tưởng tiến bộ hơn mình. 
2.2.2. Với bản chất văn hóa sẵn có là 
ưa ổn định bằng mọi giá, tư tưởng Nho 
học hướng đến xây dựng một xã hội ổn 
định trở thành công cụ rất thích hợp phục 
vụ mục tiêu này. Bên cạnh mặt tốt là đề 
cao những giá trị nhân bản của con người, 
Nho học quá coi trọng lễ nghĩa; mà lễ 
nghĩa thì trói buộc con người, kiềm chế sự 
sáng tạo. Không sáng tạo, thì không thể có 
phát triển. 
Chữ Lễ đòi hỏi sự phục tùng, cho nên 
nhiều người nói rất đúng rằng chữ Lễ bắt 
đầu ở đâu thì tinh thần tự do sáng tạo và 
lòng tự tin kết thúc ở đó. Nhà nghiên cứu 
triết học Hà Thúc Minh nhận xét rất đúng 
rằng “Lễ là phục tùng, là nói theo, cho nên 
không ít học giả cho rằng nền giáo dục chữ 
Lễ đào tạo ra đa phần là “nô tài” chứ không 
phải là “nhân tài” (Hà Thúc Minh, 2014, 
tr.99). Học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét 
rằng triết lý của Khổng Tử “rất thích hợp 
với một quốc gia cần thoát khỏi cảnh hỗn 
loạn nhu nhược để lập lại trật tự... nhưng 
đối với một quốc gia cần cải tiến hoài để 
ganh đua trên trường quốc tế thì triết lý đó 
là một trở ngại. Ưu điểm và nhược điểm 
của Khổng học ở đó” (Nguyễn Hiến Lê, 
1995, tr.230). 
3. Triết lý nào cho giáo dục Việt Nam? 
3.1. Xã hội Việt Nam cần gì? 
Xã hội Việt Nam hiện đại cần thoát 
khỏi sự trì trệ để phát triển. Muốn thoát khỏi 
sự trì trệ thì cần thoát khỏi vòng kim cô của 
văn hóa âm tính, thực hiện sự chuyển đổi hệ 
giá trị theo hướng thiên về dương tính. Điều 
đó có nghĩa là xã hội phải thực sự dân chủ 
và hoạt động theo pháp quyền, con người 
phải thay chủ nghĩa cộng đồng làng xã bằng 
bản lĩnh cá nhân và ý thức công dân (cộng 
đồng xã hội). Phải coi trọng sự trung thực 
hơn là khôn khéo; ý thức trách nhiệm thay 
cho thói dựa dẫm; tinh thần hợp tác vì việc 
chung thay cho bệnh phe nhóm, thói sĩ diện; 
tính khoa học và sáng tạo thay cho lối làm 
việc đối phó, tùy tiện (Trần Ngọc Thêm, 
2016, tr.468-497). 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) 
8 
Triết lý giáo dục cần phải thay đổi từ 
hướng đến ổn định chuyển sang hướng 
đến phát triển, từ đào tạo người thừa hành 
(“con ngoan trò giỏi” theo nghĩa “biết vâng 
lời” và “học thuộc bài”) sang đào tạo con 
người của xã hội hiện đại có bản lĩnh và 
sáng tạo. 
3.2. Vai trò của Nho học trong triết lý 
giáo dục Việt Nam mới 
3.2.1. Triết lý giáo dục hướng đến sứ 
mệnh xây dựng xã hội phát triển và mục 
tiêu đào tạo người sáng tạo không phủ 
nhận vai trò của tư tưởng Nho học, bởi lẽ 
tư tưởng Nho học, như đã nói ở mục 1.1, 
rất đa dạng và phong phú. Trong đó, triết lý 
giáo dục của Khổng Tử vốn mang đầy đủ 
tính dân chủ và khai phóng. 
Khổng Tử cho con được can cha, chứ 
không bắt con phải tuyệt đối phục tùng cha 
mẹ. Ông chủ trương đề cao tự do tư tưởng, 
chấp nhận sự khác biệt khi nói: “Người 
quân tử hòa hợp mà không nhất thiết phải 
cùng quan điểm; kẻ tiểu nhân ngay cả khi 
cùng quan điểm mà vẫn không hòa hợp” 
(Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng 
nhi bất hòa) (Luận ngữ, XIII, 231). Ông 
yêu cầu học trò học thì phải suy nghĩ chứ 
không được học thuộc lòng: “Học mà 
không suy nghĩ thì tăm tối; suy nghĩ mà 
không học thì nguy hại” (Học nhi bất tư tắc 
võng, tư nhi bất học tắc đãi) (Luận ngữ, II, 
15). Ông đòi hỏi ở học trò bản lĩnh và sáng 
tạo chứ không phải là sự ngoan ngoãn rập 
khuôn: “Ta vén cho một góc rồi mà [kẻ 
nào] không tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia, 
thì ta không dạy cho nữa” (Cử nhất ngung, 
bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã) 
(Luận Ngữ, VII, 8). 
Chỉ có điều những tư tưởng này của 
Khổng Tử không phù hợp với mục tiêu đào 
tạo con người biết vâng lời để phục vụ cho 
văn hóa hướng đến ổn định nên vua các 
nước cùng thời không ai dùng Khổng Tử, 
khiến thầy trò ông phải lang thang phiêu 
bạt khắp nơi như “chó không nhà” (táng 
gia cẩu, 丧家狗 ). Những tư tưởng khai 
phóng của Khổng Tử cũng chưa bao giờ 
được coi trọng, đề cao trong Hán Nho, 
Tống Nho. Chúng thường chỉ được nhắc 
đến trong các khảo cứu hàn lâm theo kiểu 
“khai quật khảo cổ học”. Nói đến Nho giáo 
(Hán Nho, Tống Nho) mà trích dẫn những 
tư tưởng này của Khổng Tử (như thường 
gặp trong không ít sách vở, luận văn, luận 
án) là một sự nhầm lẫn nghiêm trọng. 
3.2.2. Bên cạnh mục tiêu tạo nên xã 
hội ổn định, Nho học hướng đến xây dựng 
con người với những phẩm chất nhân bản 
rất cần cho xã hội hiện đại thiên về vật 
chất. Như thế, việc khai thác và sử dụng tư 
tưởng Nho học cần đi vào chiều sâu, tùy 
thuộc vào mục tiêu cụ thể của từng quốc 
gia, trong từng giai đoạn. 
Những quốc gia đang trong giai đoạn 
phát triển quá nhanh, có nguy cơ thiếu ổn 
định thì có thể đề cao Nho học; còn những 
quốc gia đang trong giai đoạn chuyển đổi 
từ ổn định sang phát triển (như Việt Nam) 
thì việc đề cao Nho học sẽ làm chậm sự 
phát triển. Không nên xem những phong 
trào văn hóa đại chúng ồn ào kiểu như hiện 
tượng Vu Đan ở Trung Quốc thời gian 
2006-2013 (Yu Dan, 2014; Hải Lan, 2012) 
là hình mẫu cho mọi quốc gia. 
Nghiên cứu được tài trợ bởi Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia giai đoạn 2016-
2020 trong khuôn khổ Đề tài “Triết lý giáo dục Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại”, mã số 
KHGD/16-20.ĐT.011 
TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
9 
Chú thích: 
1Số La-mã là chương, số A-rập sau đó là đoạn 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Hà Thúc Minh. (2014). Chữ Lễ và giáo dục thời xưa. Tạp chí Khoa học xã hội TP.HCM, 
số 6, tr.94-99. 
Hải Lan. (2012). Vu Đan đưa “Luận ngữ”, “Trang Tử” đến thế giới hiện đại. Khai thác 
từ: vnexpress.net/vu-dan-dua-luan-ngu-trang-tu-den-the-gioi-hien-dai-2390705.html. 
Hồ Sĩ Quý. (2009). Về số phận của Nho giáo. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 8, 
tr.48-53. 
Khổng Tử. (2002). Luận ngữ. Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê. NXB Văn học, 173 trang. 
Nguyễn Hiến Lê. (1995). Khổng Tử. Hà Nội: NXB Văn hóa - Thông tin, 268 trang. 
Trần Ngọc Thêm. (1996). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB TP.HCM, 670 trang. 
Trần Ngọc Thêm. (2013). Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng. TP.HCM: NXB 
Văn hóa - Văn nghệ, 675 trang. 
Trần Ngọc Thêm. (2016). Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường 
tới tương lai. TP.HCM: NXB Văn hóa - Văn nghệ, 589 trang. 
Yu Dan. (2014). 文明之旅 [文明之旅 ]于丹 话清明 (20130401). Khai thác từ: 
youtube.com/watch?v=a-NAyV_cu8s (CCTV). 
Ngày nhận bài: 03/11/2020 Biên tập xong: 15/01/2021 Duyệt đăng: 20/01/2021 

File đính kèm:

  • pdftinh_gia_tri_va_vai_tro_cua_nho_hoc_trong_triet_ly_giao_duc.pdf