Tìm hiểu nghĩa gốc và hàm ý văn hóa của chữ “hảo” ( 好) trong tiếng Hán
“Hảo” (好) là một trong những từ thường dùng nhất trong tiếng Hán hiện đại, nó không những có
nhiều chức năng cú pháp mà còn là một từ đa nghĩa. Trước đây, nhiều người cho rằng, “hảo” (好) có
nghĩa gốc là “tốt” (优), “đẹp” (美), sau này từ nghĩa gốc được phát triển thêm nhiều nghĩa mở rộng
và những nghĩa này mang nội hàm văn hóa vô cùng phong phú và đặc sắc. Bài viết từ góc độ ngôn
ngữ học xã hội tiến hành phân tích kết cấu và ý nghĩa của chữ “hảo”để tìm ra hàm ý văn hóa của nó,
từ đó chỉ ra nét đẹp của chế độ mẫu hệ và vai trò của người phụ nữ ẩn trong chữ “hảo (好)”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu nghĩa gốc và hàm ý văn hóa của chữ “hảo” ( 好) trong tiếng Hán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu nghĩa gốc và hàm ý văn hóa của chữ “hảo” ( 好) trong tiếng Hán
ề quyền tự vệ, vốn được Hiến chương ghi nhận từ năm 1945, đang đứng trước thách thức không nhỏ về khả năng tạo ra khuôn khổ pháp lý phù hợp với những biến đổi rõ rệt về an ninh quốc gia và quốc tế trong đời sống chính trị quốc tế hiện nay. Thực tiễn cho thấy, những tranh cãi xung quanh quy chế pháp lý và thực tiễn vận dụng quy chế pháp lý của hoạt động sử dụng vũ lực để tự vệ hiện đang tồn tại trong đời sống quốc tế, gây khó khăn không ít cho việc bảo vệ hòa bình và an ninh chung của tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. 2. NỘI DUNG 2.1. Quy chế pháp lý Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm thiệt hại đến quyền tự vệ cá thể hay tập thể một cách chính đáng, trong trường hợp một thành viên Liên hợp quốc bị tấn công vũ trang, cho đến khi Hội đồng Bảo an ấn định những biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp do các thành viên thi hành trong việc thực hiện quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho Hội đồng Bảo an biết...” (Hiến chương Liên hợp quốc). Như vậy, mặc dù đã xây dựng nên hệ thống an ninh tập thể do Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thay mặt các quốc gia thành viên lãnh đạo nhằm ngăn chặn hành vi sử dụng vũ lực đơn phương, luật pháp quốc tế vẫn thừa nhận quyền sử dụng vũ lực để tự vệ của các quốc gia ngoài khuôn khổ Liên hợp quốc. Theo đó, hành động sử dụng vũ lực để tự vệ của từng quốc gia đơn lẻ được coi là chính đáng, hợp pháp khi hội tụ đủ các điều kiện: Thứ nhất, bản thân quốc gia ấy bị tấn công vũ trang một cách bất hợp pháp. Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc không ghi nhận quyền được sử dụng vũ lực để tự vệ khi hoạt động tấn công vũ trang mới chỉ tồn tại ở mức độ nguy cơ, chưa xảy ra trên thực tế. Tại thời điểm Hiến chương Liên hợp quốc mới được xây dựng, hành vi tấn công vũ trang trang bất hợp pháp mà Hiến chương dự liệu thường được hiểu là hành vi xâm lược vũ trang1 - nguyên nhân chủ yếu gây nên xung đột giữa các quốc gia, làm ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh quốc tế. Thứ hai, hành vi tự vệ được tiến hành khi Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc chưa can dự ấn định những biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Quyền tiến hành hoạt động tự vệ ngoài khuôn khổ Liên hợp quốc sẽ phải dứng lại nếu Hội đồng Bảo an đã đưa vấn đề tranh chấp vào chương trình nghị sự và ấn định biện pháp cần áp dụng để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp này, về nguyên tắc, các quốc gia thành viên Liên hợp quốc sẽ phải tuân thủ các nghị quyết mà Hội đồng Bảo an đã ban hành2. Tất cả những hoạt động sử dụng vũ lực ngoài khuôn khổ Liên hợp quốc, bao gồm cả tự vệ, không có sự cho phép của Hội đồng Bảo an không còn được coi là hợp pháp (Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh, 2001); (Đại học Luật Hà Nội, 2015). Thứ ba, mức độ sử dụng vũ lực để tự vệ phải tương xứng, hay nói cách khác là “tỷ lệ với mức độ bị tấn công vũ trang” (Học viện Quan hệ quốc tế, 2007, tr.496). Điều kiện này tuy không được Điều 51 Hiến chương đề cập một cách rõ ràng, nhưng theo tập quán quốc tế thì hoạt động tự vệ chính đáng luôn gắn liền với tính tương xứng. Nếu không đảm bảo mức độ tương xứng, có nghĩa là quốc gia tự vệ đã làm mất đi tính “chính đáng” trong hành vi của mình, hay nói cách khác, đó là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, lạm dụng vũ lực vượt quá phạm vi tự vệ chính đáng. Thứ tư, khi sử dụng vũ lực để tự vệ, quốc gia tự vệ phải tuyên bố về sự kiện bị tấn công và thông báo ngay cho Hội đồng Bảo an biết những biện pháp mà mình áp dụng để hiện thực hoá quyền tự vệ của bản thân. Quy định này được xây dựng nhằm giúp Hội đồng Bảo an kiểm soát được hoạt động sử dụng vũ lực của các quốc gia thành viên. Bởi lẽ, dù được coi là hợp pháp, nhưng hành vi sử dụng vũ lực để tự vệ cũng đồng thời là hành vi có khả năng đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh quốc tế nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Thông báo của thành viên sẽ giúp Hội đồng Bảo an theo dõi được tình hình tranh chấp một cách sát sao, cân nhắc được mức độ hợp lý của hành vi, kịp thời có phản ứng phù hợp để bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế nếu như hòa bình và an ninh quốc tế có dấu hiệu bị đe dọa nghiêm trọng. Bên cạnh quyền tự vệ cá nhân, Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc cũng đồng thời thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động tự vệ tập thể (Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh, 2001). Theo tập quán quốc tế, các thành viên của cộng đồng quốc tế dù không bị tấn công vũ trang nhưng vẫn có thể sử dụng vũ lực để tự vệ tập 78 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v QUAN HỆ QUỐC TẾ thể nếu như họ nhận được lời đề nghị giúp đỡ từ phía quốc gia là nạn nhân trực tiếp của hành vi tấn công vũ trang bất hợp pháp. Lời đề nghị cùng tự vệ được nạn nhân trực tiếp của hành vi tấn công vũ trang bất hợp pháp đưa ra sẽ được coi là căn cứ pháp lý để hiện thực hóa quyền tự vệ tập thể. Nếu thiếu đi lời đề nghị này, hành vi sử dụng vũ lực của quốc gia thứ ba sẽ không cấu thành hành vi tự vệ tập thể, mà bị coi là hành vi vi phạm Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc cũng như nguyên tắc Cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế3. 2.2. Thực tiễn áp dụng và giải pháp khắc phục 2.2.1. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về quyền tự vệ Không thể phủ nhận những tác động tích cực mà quy chế pháp lý về quyền tự vệ mang lại cho đời sống chính trị quốc tế trong thời gian qua, đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do tác động của những phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ trong lĩnh vực quân sự, sự biến chuyển mạnh mẽ tương quan so sánh lực lượng giữa các quốc gia trên thế giới, cùng với những diễn biến phức tạp trong tình hình an ninh quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã dần thay đổi nhận thức, điều chỉnh tiêu chí đánh giá các nguy cơ đe dọa an ninh, từ đó đơn phương tuyên bố và quyết tâm thực hiện phương thức bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, bất chấp phương thức ấy có vượt khỏi phạm vi cho phép của pháp luật quốc tế hay không. Hiện thực này đặt ra không ít thách thức đối với các chuẩn mực pháp lý về quyền tự vệ mà Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc đã xác lập nên trong quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay. Cụ thể, dù Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc chỉ cho phép các quốc gia sử dụng vũ lực khi có hành vi tấn công vũ trang bất hợp pháp xảy ra, nhưng khi xử lý vụ khủng bố xảy ra ở Mỹ vào ngày 11/9/2001, cộng đồng quốc tế đã chứng kiến việc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ra nghị quyết 1368 ngày 12/11/2001 cho phép Mỹ sử dụng vũ lực để tự vệ khi chỉ mới xuất hiện hành vi đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Rõ ràng, xét về mặt logic, tấn công vũ trang là một tập con của đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Tức là, mọi hành vi tấn công vũ trang bất hợp pháp đương nhiên là hành vi đe dọa hoà bình và an ninh quốc tế, nhưng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế chưa chắc đã là tấn công vũ trang. Ngoài tấn công vũ trang, hoạt động bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế trên thực tế của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cho thấy, đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế còn có thể bao gồm hành vi vi phạm một cách nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người (Sudan 2006-2007, Nam Phi 1977, Nam Tư 1990-1991); tình trạng chính phủ không hợp pháp tạo nên sự bất ổn về an ninh gây hại cho dân thường, dẫn đến hậu quả trên quy mô quốc tế (Haiti 1993); hay gần đây là tình trạng quốc gia có nguy cơ phát triển và phổ biến vũ khí hạt nhân (Iraq, Iran, Triều Tiên)... Hội đồng Bảo an chỉ xác định hành vi khủng bố ngày 11/9/2001 xảy ra tại Mỹ là hành vi đe dọa hoà bình và an ninh quốc tế nói chung chứ không hề xác định rõ đó là tấn công vũ trang, nhưng lại thừa nhận Mỹ và các đồng minh ủng hộ Mỹ có quyền tự vệ chính đáng cá nhân hoặc tập thể để tấn công Afganixtan - một quốc gia có chủ quyền, dù được cho là chứa chấp trùm khủng bố Bin Laden, nhưng không phải là một quốc gia tiến hành hành vi khủng bố. Trên phương diện pháp luật, đây hiển nhiên là một tiền lệ nguy hiểm, mở đường cho việc phá vỡ tiêu chí về trường hợp quốc gia có quyền tự vệ được quy định tại Điều 51 Hiến chương. Trong trường hợp thực tế này, cộng đồng quốc tế khó lòng quy kết trách nhiệm pháp lý dành cho Mỹ, vì Mỹ đã tận dụng được Hội đồng Bảo an để hợp pháp hóa quyền tự vệ của mình. Chủ thể trực tiếp ra nghị quyết trái với pháp luật quốc tế chính là Hội đồng Bảo an. Vấn đề tiếp theo đặt ra với quy chế pháp lý về quyền tự vệ là đòi hỏi về tính tương xứng khi thực hiện quyền tự vệ cũng thường xuyên bị vi phạm trên thực tế. Trường hợp Mỹ và đồng minh tấn công Afganixtan vào tháng 12/2001 nêu trên là một ví dụ điển hình. Trong trường hợp này, cứ cho rằng Mỹ có cơ sở để tự vệ theo đúng nội dung Nghị quyết 1368 ngày 12/9/2001 của Hội đồng Bảo an, thì hành vi sử dụng vũ lực tấn công vào một quốc gia có chủ quyền như Afganixtan cũng không thể coi là tương xứng với hành vi khủng bố xảy ra ở Mỹ ngày 11/9/2001. Bởi lẽ, để thực hiện quyền tự vệ, Mỹ và các nước đồng minh đã sử dụng một lực lượng lớn không quân và lục quân có vũ trang hiện đại tấn công trên diện rộng vào lãnh thổ của Apganixtan, lật đổ chính quyền đang lãnh đạo đất nước là Taliban chỉ để đáp trả lại hành vi của một nhóm không tặc vô chính phủ cướp máy bay lao vào Tòa tháp đôi Trung tâm thương mại và Lầu Năm góc của Mỹ. Nhiều quốc gia trong cộng đồng quốc tế đã tỏ ra rất lo lắng trước hành động này của Mỹ. Bởi lẽ, tình trạng vượt quá phạm vi tự vệ chính đáng xảy ra thường xuyên, không bị ngăn chặn, sẽ làm vô hiệu 79KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 QUAN HỆ QUỐC TẾ v hóa hiệu lực của Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc, gây ảnh hưởng lớn đến hòa bình và an ninh quốc tế. Vấn đề nghiêm trọng hơn cả xảy ra trên thực tế thách thức trật tự pháp lý quốc tế về sử dụng vũ lực để tự vệ là sự ra đời của các hành vi tự vệ được biện hộ bởi học thuyết “đánh đòn phủ đầu” hay “chiến tranh phòng ngừa”. Trong khi Điều 51 Hiến chương chỉ cho phép tiến hành hành vi tự vệ khi đã bị tấn công vũ trang, thì những người theo học thuyết này lại cho rằng các quốc gia có quyền tự vệ ngay khi có nguy cơ của một cuộc tấn công vũ trang nếu đã có bằng chứng cho thấy nguy hiểm đã cận kề và hành động là cấp thiết nhằm loại trừ khả năng đối thủ có được năng lực để tấn công trong tương lai (đánh đòn phủ đầu), thậm chí, có thể tự vệ ngay cả khi không có bằng chứng rõ ràng về nguy cơ tấn công mà chỉ nhằm chống lại mối đe dọa mang tính chiến lược nhiều hơn để loại trừ việc có thể bị kẻ thù tấn công trong tương lai (chiến tranh phòng ngừa). Cuộc tấn công bất ngờ vào Ai Cập và một số quốc gia Ả rập ngày 5/6/1967 là một ví dụ điển hình cho việc vận dụng học thuyết đánh đòn phủ đầu của Israel4. Còn cuộc tấn công của Israel tháng 6/1981 vào lò phản ứng hạt nhân Osirag của Irag lại mang tính chất của một cuộc chiến tranh phòng ngừa5. Trong những trường hợp này, trái ngược với lập luận biện hộ của Israel về hành vi sử dụng vũ lực là để thực hiện quyền tự vệ chính đáng, Hội đồng Bảo an đã ra Nghị quyết 487 năm 1981 lên án mạnh mẽ hành vi của Israel, coi đó là một sự vi phạm rõ ràng Hiến chương Liên hợp quốc. Sau sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001, cộng đồng quốc tế chứng kiến Mỹ đưa ra học thuyết đánh đòn phủ đầu làm cơ sở cho việc tấn công vào Afganixtan và Iraq để thực hiện quyền “tự vệ chính đáng phòng ngừa” của mình ((Học viện Quan hệ quốc tế, 2007, Luật Quốc tế); (Danh Đức, 2003)). Giống với Mỹ, trong sách trắng quốc phòng năm 2015, Trung Quốc cũng đưa ra quan điểm “phòng ngự tích cực” nhằm mở đường cho lực lượng vũ trang Trung Quốc tấn công trước nếu quốc phòng hoặc đường biên giới Trung Quốc bị đe dọa. Những quốc gia ủng hộ quyền “tự vệ chính đáng phòng ngừa” lập luận rằng, điều kiện cần để thực hiện quyền tự vệ chính đáng là bị tấn công vũ trang đã không còn phù hợp với tình hình an ninh quốc tế hiện nay. Bởi lẽ, hiện nay các mối đe dọa anh ninh cả truyền thống và phi truyền thống ngày càng xuất hiện nhiều và có diễn biến phức tạp hơn, đặc biệt là nguy cơ khủng bố, ly khai, hay việc một quốc gia tàng trữ vũ khí huỷ diệt hàng loạt sẽ khiến quốc gia tự vệ phải chịu tổn thất hết sức nặng nề, thậm chí tổn thất không thể khắc phục được nếu tuân thủ đúng Điều 51 Hiến chương - bị tấn công rồi mới tự vệ. Do vậy, với niềm tin rằng không hành động hôm nay đồng nghĩa với phá huỷ tương lai, họ đòi hỏi phải được thực hiện quyền “tự vệ chính đáng phòng ngừa”. Lập luận của họ không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Vấn đề là, dựa trên lập luận này, vì lợi ích riêng của mình, những quốc gia nêu trên có thể dễ dàng lạm dụng quyền tự vệ, tự cho mình quyền đánh giá các nguy cơ đe dọa an ninh một cách tùy tiện, thiếu căn cứ rõ ràng trước khi hành động, bỏ qua tuyên bố pháp lý của Tòa án Nuremburg xét xử các tội phạm phát xít Đức năm 1945: “Một hành động phòng ngừa trên lãnh thổ của một quốc gia khác chỉ có thể có căn cứ nếu hành động đó là cực kỳ cần thiết và khẩn cấp để thực hiện quyền tự vệ chính đáng, đến mức không thể lực chọn một phương cách khác cũng như không có đủ thời gian để bàn bạc”. Trong diễn văn khai mạc cuộc họp thường niên của Đại hội đồng Liên hợp quốc tháng 9/2003, Tổng thư ký Kofi Annan đã bày tỏ mối quan ngại của mình trước thực tiễn mới này. Theo ông, thực tiễn này là một thách thức lớn đối với những nguyên tắc nền tảng cho hòa bình và ổn định thế giới từ 58 năm qua, nó có thể tạo thành những tiền lệ có nguy cơ làm tăng việc sử dụng vũ lực đơn phương, dù có căn cứ hay không có căn cứ (Danh Đức, 2003). Có thể thấy, Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc ra đời vào năm 1945 với mục đích tạo dựng hành lang pháp lý giúp các quốc gia đối phó với những mối đe dọa an ninh truyền thống - chủ yếu là các cuộc chiến tranh xâm lược - đã ít nhiều tỏ ra không đủ sức điều chỉnh một cách hợp lý sao cho vừa bảo vệ được quyền tự vệ hợp pháp của các quốc gia, vừa ngăn ngừa được khả năng lạm dụng quyền tự vệ làm ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh quốc tế trong tình hình an ninh quốc tế mới hiện nay. Tuy nhiên, xét trên phương diện pháp luật thực định, khi những quy định tại Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc và nguyên tắc Cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực chưa được sửa đổi, thì đây vẫn là những quy định có hiệu lực bắt buộc với tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Do đó, các hành vi vượt quá phạm vi tự vệ chính đáng, sử dụng vũ lực để tự vệ khi hành vi vi phạm pháp luật chưa cấu thành tấn công vũ trang, đặc biệt là tự vệ trước khi bị tấn công theo học thuyết đánh đòn phủ đầu, chiến tranh phòng ngừa đều là những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế, làm giảm hiệu lực điều chỉnh của luật thực định. Khi hệ thống
File đính kèm:
- tim_hieu_nghia_goc_va_ham_y_van_hoa_cua_chu_hao_trong_tieng.pdf