Tiếp cận chủ thể và khách thể (Emic/etic)
Sự đối lập giữa emic và etic trong quá
khứ có lúc lên đến đỉnh điểm và đến
nay vẫn còn được sử dụng khá thường
xuyên trong giới nghiên cứu nhân học
nói tiếng Anh. Phải chăng việc sử dụng
đúng mực và thận trọng sự đối lập giữa
emic/etic sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn
phiền phức(*)? Trong bất cứ trường hợp
nào, bằng thuật ngữ “khoa học luận
thực hành”, chiến lược nghiên cứu phải
tách bạch dữ liệu thu thập được qua
diễn ngôn của chủ thể với dữ liệu quan
sát và tài liệu viết tay, điều đó có lẽ sẽ
làm tăng tính hiệu quả hơn là pha trộn
các dữ liệu đó. Cũng như vậy, trong
nghiên cứu, việc phân biệt giữa diễn
ngôn dân gian (hay thổ ngữ) với diễn
ngôn bác học sẽ mang lại hiệu quả hơn
là để lẫn cả hai diễn ngôn đó. Thực tế,
sự phân biệt giữa emic và etic cũng
tương tự như thế. Nhưng, cán cân đôi
khi có thể nghiêng về những yếu tố phụ
với lý do ít người theo emic hoặc etic hay
cả hai, hoặc là họ thích sử dụng sự đối
lập và sự xung khắc của chúng hơn là
sự bổ trợ và liên kết. Mặt khác, khoảng
(*) Tôi xin cảm ơn những lời nhận xét đối với bản
đầu tiên của G. Lenclud và J.C. Passeron.
vài thập kỷ trước, đã xảy ra cuộc tranh
luận hết sức nóng bỏng trong giới nhân
học Mỹ xoay quanh tiếp cận emic/etic.
Quay trở lại tranh luận trước đây cho
phép chúng ta đề xuất một số khái niệm
và phương pháp luận rõ ràng hơn để
khai thông thắc mắc về tính hợp thức
kinh nghiệm chủ nghĩa đối với các diễn
ngôn và những biểu hiện của chủ thể
văn hóa, cũng như sự cần thiết phân
biệt giữa cách diễn giải “trong emic” với
diễn giải “về emic”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp cận chủ thể và khách thể (Emic/etic)
từ nhãn quan của ng−ời quan sát. Sự t−ơng hợp về ngữ nghĩa không phải đ−ợc tạo ra bởi những câu hỏi đặt ra cho các tác nhân xã hội (đúng là tính tự nhiên của t− liệu lịch sử theo tr−ờng phái Weber càng nhiều, quy mô rộng đ−ợc ông chấp nhận càng ít...), vì hình nh− họ hiếm khi tự nhận thức về nghĩa đó, mà th−ờng là do quá trình t− duy của nhà nghiên cứu đã biến nó thành nghĩa chung. Cũng nh− vậy, sự t−ơng hợp về ngữ nghĩa là thái độ phát triển với sự cố kết chặt chẽ đến mức mà mối quan hệ giữa các thành tố của chúng đã đ−ợc chúng ta thừa nhận bởi đã tạo nên tổng thể có ý nghĩa, là đặc tr−ng của thói quen t− duy và cảm nhận thông th−ờng của chúng ta (Weber, 1971, tr.10). Nhận thức chính là tri nhận bằng cách diễn giải tinh thần của toàn bộ những ý nghĩa h−ớng đến (Weber, 1971, tr.8). Trong hầu hết các tr−ờng hợp, hoạt động thực tế diễn ra theo cách nửa có ý thức hoặc vô thức về nghĩa đ−ợc h−ớng đến (...). Nh−ng điều đó không thể cản trở nhà xã hội học đ−a ra các quan niệm qua việc xếp loại nghĩa đ−ợc h−ớng đến, có nghĩa là dù thế nào thì hành động cũng đã thực sự diễn ra với ý thức định h−ớng có ý nghĩa (Weber, 1971, tr.19). Có thể nói, ban đầu Weber có thể đ−ợc xếp vào hàng ngũ những ng−ời bênh vực cho khuynh h−ớng cần thiết sử dụng cách tiếp cận emic. Nh−ng trong hành động, đôi khi ông làm ng−ợc lại trong việc xây dựng t− liệu suy lý, cũng giống nh− cách mà ngày nay nhân học và xã hội học hay sử dụng, đó là tiếp cận định tính. 52 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2014 Etic ở phần trên tôi đã phác họa phần nào về hai ý nghĩa nền tảng của thuật ngữ etic. Tr−ờng hợp thứ nhất, chỉ ra những phạm trù khoa học, những phân tích của nhà nghiên cứu, các diễn ngôn bác học. Sự đối lập emic/etic mà chúng tôi gọi là A, trong tr−ờng hợp này bao gồm, nh− quan niệm của hầu hết các nhà nhân học, sự đối lập cổ điển mà các nhà xã hội học đã nêu giữa nghĩa thông th−ờng và nghĩa bác học. A = emic : etic :: nghĩa dân gian : nghĩa bác học. Ta có thể diễn giải sự đối lập A nh− sự phân biệt giữa hai cấp độ của ngôn ngữ - ngôn ngữ tự nhiên địa ph−ơng hay bản địa và siêu ngôn ngữ khoa học tầm thế giới, hoặc là sự phân biệt giữa hai thế giới nhận thức(*). Trong tr−ờng hợp thứ hai, hay sự đối lập B, etic dựa vào các dữ liệu quan sát và đối chiếu với tài liệu viết tay. Nh− vậy, sự đối lập B tạo ra ý nghĩa có tính ph−ơng pháp luận nhiều hơn và nó kết hợp với những hình thức thu thập t− liệu khác. B = emic : etic :: dữ liệu suy lý - các biểu hiện : dữ liệu quan sát - tài liệu viết tay Nh−ng hệ thống về hai sự đối lập này có lẽ không cân xứng. Quả vậy, cả hai nghĩa của emic đều bao hàm bản chất của nó. Chúng t−ơng tự nh− nhau trong tr−ờng hợp A và B. Phải chăng, nghĩa dân gian không đ−ợc biểu đạt qua (*) Ghi chép về ph−ơng pháp dân tộc học. những t− liệu suy lý? Thế giới nhận thức của chủ thể văn hóa hầu nh− không bao trùm hết biểu hiện của họ? Cho nên, cái đ−ợc gọi là 4 cấp độ của emic thật sự không thể làm rõ tính thuần nhất t−ơng đối của nghĩa chung. Ng−ợc lại, hai nghĩa của etic khác nhau trong tr−ờng hợp A cũng nh− trong tr−ờng hợp B. Nghĩa bác học ít bị đồng hóa với những dữ liệu quan sát. Từ nhận định đó dẫn đến hai hệ quả. Thứ nhất, kéo chúng ta quay trở về với tranh luận đã nói ở trên. Nếu Harris rơi vào tình huống không rõ ràng, hay rối rắm, chính là bởi vì ông đã đánh đồng cả hai ý nghĩa của etic và trộn lẫn tính khoa học (etic nh− tinh thần bác học) với khả năng quan sát (etic nh− là dữ liệu phi suy lý). Ông còn làm rối tung tr−ờng hợp A và B. Nói cách khác, ta không thể xếp chồng lên nhau cả hai tr−ờng hợp đối lập đó mà cần phải chọn cái này hay cái kia(*). (*) Về cá nhân, tôi sẽ chọn cái này rồi đến cái kia... Vì ban đầu tôi đã sử dụng etic trên tinh thần là diễn ngôn của nhà nghiên cứu đối lập với diễn ngôn của ng−ời địa ph−ơng, sau đó tôi thích dùng sự t−ơng phản-tính bổ sung giữa các dữ liệu tản mạn (lời nói ghi lại từ ng−ời địa ph−ơng) và dữ liệu chép tay (những quan sát và tính toán emic etic etic Diễn ngôn và biểu hiện của chủ thể văn hóa = Diễn ngôn bác học = Dữ liệu không biểu lộ B A Tiếp cận chủ thể và khách thể 53 Hệ quả thứ hai là có thể từ bỏ thuật ngữ etic với cả hai nghĩa của nó và còn bỏ cả tr−ờng hợp A và B để chỉ giữ lại thuật ngữ emic với sự ổn định về ngữ nghĩa. Trong tr−ờng hợp này, emic có thể chen chân vào những biểu hiện hay diễn ngôn địa ph−ơng, bản địa, dân gian, thông th−ờng hoặc thậm chí là văn hóa. Quả vậy, mỗi thuật ngữ chuyển tải những nghĩa mở rộng liên quan đến cách sử dụng thông th−ờng đã gây nhiễu và gây khó khăn cho các nhà nhân học cho dù đó là nghĩa xấu, nghĩa không thích hợp hay nghĩa không thể kiểm soát đ−ợc. Điều này giải thích tại sao trong cách hành văn bác học ta th−ờng thấy những thuật ngữ này đ−ợc cho vào trong ngoặc kép. Với t− cách là nghĩa mới và để những tranh luận b−ớc đầu không để lại dấu ấn gì, emic cũng đ−a ra những lợi thế rõ ràng về sự trung tính. Những vấn đề diễn giải Chúng ta chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa emic/etic và vấn đề diễn giải d−ới hai khía cạnh: quy −ớc nhận thức về các diễn giải emic và sự hiện diện của diễn giải nhân học trong các diễn giải émic(*). Trở lại với vấn đề này, câu hỏi đặt ra là diễn giải emic có vị thế khác với cách diễn giải bác học không (etic)? Ngày nay, câu trả lời có vẻ t−ơng đối đơn giản. Lối diễn giải emic có vị thế nhận thức khác, nh−ng cũng thuộc về tinh thần. Nói cách khác, nó gồm nhiều nghĩa khác nhau (và đ−ợc đ−a vào các suy luận của nhà nghiên cứu). Đó chính là sự đơn giản mà tiện lợi. (*) Trong tiếng Pháp, emic đ−ợc viết là émique. Cho dù là tình huống đ−ợc đ−a ra nh− thế nào chăng nữa (đối lập với A hay đối lập với B, hoặc chỉ sử dụng mỗi thuật ngữ emic), thì cơ bản nghĩa của thuật ngữ emic vẫn khá ổn định. xã hội khác nhau), nh−ng không có nghĩa nào bị xếp d−ới hay xếp trên(*). Cũng trên quan điểm này, sở dĩ Harris suy nghĩ nh− thế là bởi vì ông muốn phân biệt giá trị giữa diễn ngôn bác học và diễn ngôn của chủ thể văn hóa và khẳng định (ít nhất là trong thời gian đầu), uy thế của diễn ngôn bác học cao hơn diễn ngôn địa ph−ơng. Vị thế khoa học luận nghiêm khắc sẽ không thừa nhận sự phân chia cao thấp giữa hai diễn ngôn này (không có tiêu chí “đạo đức” chung cho cả hai loại diễn ngôn để cho phép tạo dựng tính −u việt của mỗi loại, bởi vậy diễn ngôn của ng−ời cung cấp thông tin cũng có giá trị nh− diễn ngôn của nhà nghiên cứu), nh−ng lại chấp nhận sự khác biệt nh− là điều hiển nhiên và bình th−ờng (tính khách quan, tiềm năng và những quy tắc của hai loại diễn ngôn đó hoàn toàn khác nhau và có thể nói diễn ngôn của ng−ời cung cấp thông tin không phải là diễn ngôn của nhà nghiên cứu). Một khi có sự hiểu nhầm nh− thế, vẫn tồn tại vấn đề về “sự hiện diện” không thể thiếu các diễn giải của nhà nghiên cứu ngay trong cách diễn đạt emic(**). Quả vậy, việc tập hợp các diễn ngôn, hay những biểu đạt emic không phải là thu thập tài liệu thống kê, mà bao gồm những diễn giải của nhà nghiên cứu đ−ợc tích hợp trong nghiên cứu và sự thu thập thông tin từ ng−ời (*) Cho rằng vai trò của những diễn giải bản địa thấp hơn diễn giải bác học là quan điểm của ng−ời lấy dân tộc làm trung tâm hay ng−ời theo chủ nghĩa khoa học; còn ng−ợc lại thì là quan điểm dân túy (đứng về phía ng−ời dân). (**) Chúng tôi đề cập đến vấn đề về sự hiện diện cách diễn giải của nhà nghiên cứu ngay trong tài liệu họ biên soạn dù theo h−ớng emic hay etic (ở đây tôi sử dụng sự đối lập B). Đơn giản là hình thức của sự hiện diện này thay đổi theo dạng tài liệu (định tính hay định l−ợng, suy lý hay quan sát,v.v...). 54 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2014 dân không chỉ d−ới dạng đặt câu hỏi mà còn các vấn đề khác (nh− giả thuyết, đối t−ợng −u tiên, không đ−ợc nói theo định kiến của mình). Toàn bộ chiến l−ợc nghiên cứu trên thực địa phụ thuộc vào sự diễn giải tích hợp(*). Nh−ng cũng có hai kiểu diễn giải. Chúng tôi cho rằng những diễn giải tích hợp trong quá trình thu thập dữ liệu dựa vào kinh nghiệm của các nhà nhân học có tính chất khác với những diễn giải trong quá trình xử lý thông tin(**). Bởi vậy, chúng tôi cho rằng có những diễn giải nhân học trong emic và có những diễn giải nhân học về emic. Diễn giải nhân học trong emic là diễn giải nghiên cứu thực địa, tuân thủ một số nguyên tắc của việc thu thập thông tin emic. Trong chừng mực nào đó, tác dụng của chúng là cực tiểu, hay chính xác hơn, chúng không cản trở sự tồn tại của những dữ liệu emic. Quả thực, nếu những diễn giải này cần thiết l−u giữ một “dấu ấn” của những diễn giải nghiên cứu thì những dấu ấn đó ít nhiều sẽ trở nên to lớn và trong mọi tr−ờng hợp chúng không cản trở việc những dữ liệu emic tạo ra tính tự chủ, một lối sống riêng, một logic đặc biệt và khác với cách diễn giải nghiên cứu. Trong viễn cảnh đó, lối diễn giải này chỉ có giá trị về tính hiệu năng kinh nghiệm và dễ xử lý. (*) Thí dụ cụ thể từ trình tự một nghiên cứu theo chủ nghĩa kinh nghiệm (ECRIS) đến các vấn đề liên quan (các quan niệm về đấu tr−ờng, xung đột và nhóm chiến l−ợc), xem Bierschenk và Olivier de Sardan, 1996. (**) Quá trình này luôn là sự chồng chéo và không t−ơng ứng với hai giai đoạn thao tác nghiên cứu thực địa và viết : có phải công việc thực địa bao gồm hầu hết quá trình xử lý ? Thế thì còn rất ít sự đối lập giữa “mô tả” và “xử lý”, việc xử lý không ngừng tạo ra những khái niệm mô tả, đúng nh− cách viết báo cáo hồi cố trong nhân học. (a) Tính hiệu năng là khả năng thu thập dữ liệu mới, xác nhận hay bác bỏ những giả thuyết, hoặc nghiên cứu những lĩnh vực mới. (b) Tính dễ xử lý, chính là khả năng dễ thay đổi, dễ sửa chữa, dễ tái tạo từ quá trình thu thập dữ liệu cho đến thông tin phản hồi của emic (feed-back emic). Tính hiệu năng kinh nghiệm và tính dễ xử lý của các diễn giải nghiên cứu là đặc tính của lối diễn giải trong emic, ng−ời ta có thể nhận thấy điều đó dù cách diễn giải nghiên cứu đ−ợc thực hiện nh− thế nào và dù chúng thể hiện d−ới dạng giả thuyết (nh− vậy, đó là việc thu thập những dữ liệu emic - hay loại dữ liệu khác - xác nhận hay bác bỏ những giả thuyết ít nhiều cứng nhắc(*)) hay d−ới dạng diễn giải nghiên cứu khảo sát (ở đây muốn nói đến việc thu thập dữ liệu emic – hoặc loại dữ liệu khác, ở nơi không có hay hầu nh− rất ít thông tin, cũng giống nh− việc đi quăng chài, khai khẩn ruộng hoang, nói chung để thu thập những diễn giải nghiên cứu giả thuyết)(**). Lối diễn giải về emic thuộc tr−ờng phái diễn giải cổ điển của khoa học xã hội; vấn đề này tạo ra vô số bình luận và lý giải. Ngoài những điểm mong đợi, ng−ời ta không thấy tính hiệu năng kinh nghiệm và tính dễ xử lý (là đặc tr−ng của cách diễn giải trong emic) mà chỉ thấy sự điêu luyện và tính liên kết (*) Trong nhân học hay xã hội học định tính, mọi giả thuyết không nhất thiết phải cứng nhắc, đặc biệt trong điều tra xã hội học bằng bảng hỏi thì lại liên quan đến sự xác nhận hoặc bác bỏ có giá trị về mặt thống kê. (**) Về vấn đề này, Schwartz đã nhấn mạnh rằng: “Mục đích đầu tiên của điều tra không phải là trả lời câu hỏi mà khám phá những câu hỏi ng−ời ta đặt ra và với việc khám phá này cần phải có thời gian” (Schwartz, 1993, tr.281). Tiếp cận chủ thể và khách thể 55 chặt chẽ. Đơn giản là chúng mang lại cho nhân học đặc thù riêng, đó là tính đặc thù của quá trình biên dịch (traduction). Những dữ liệu emic đ−ợc thu thập và đ−ợc tổ chức thành một tập hợp các diễn ngôn từ tiếng n−ớc ngoài không chỉ khác biệt với nghĩa gốc của nhà nghiên cứu, mà còn bị đẩy ra xa nghĩa của ng−ời nói, vì thế, dữ liệu đó có một hệ số yếu tố ngoại lai rất lớn. Nh− vậy, những lời nói của thông tín viên phải đ−ợc dịch ra, ít nhất là đối với lời nói mà ta muốn sử dụng làm dẫn chứng hoặc trích dẫn. Ngoài những mô hình dễ hiểu mà các nhà nhân học cũng nh− xã hội học, kinh tế học, sử học đều phải sử dụng, có nghĩa là những diễn giải bác học và những phát biểu mang tính lý thuyết là đặc điểm của tất cả các nhà nghiên cứu về khoa học xã hội, bởi vậy nhà nhân học cần phải tính đến những tài liệu dịch bổ sung(*). Mọi tài liệu biên dịch cũng chính là sự diễn giải. Và một phần trong đó đề cập đến diễn giải hồi cố (ex post), diễn giải về emic, về những dữ liệu suy lý đã đ−ợc tạo ra và xác định. Nh−ng vấn đề đặc biệt mà lối diễn giải về emic đặt ra là việc dịch các dữ liệu suy lý thu thập đ−ợc có nhiều hạn chế, cần phải diễn giải thật sát nghĩa, ngoài ra phải tôn trọng nội hàm emic, hơn nữa phải trung thực với nghĩa emic, với tính đậm đặc và độc lập của nó, đồng thời phải tái tạo nó trong và đối với một tr−ờng ngữ nghĩa khác(**). Vì thế, việc (*) Đúng là một số nhà xã hội học và nhiều nhà sử học nghiên cứu về văn hóa n−ớc ngoài theo thời gian hay không gian, và đều đã gặp phải những vấn đề trong việc xử lý tài liệu emic gốc. (**) Feleppa cũng ghi chép về mối liên hệ giữa emic và việc dịch thuật nh− sau: phân tích emic dựa rất nhiều vào dịch thuật (emic analysts rest a lot on translation) (Feleppa, 1980, tr.246). Nh−ng khi trở lại với quan điểm gốc của Quine về "tính không xác định đ−ợc của dịch thuật” (the hiểu emic là sự diễn giải đồng thời trong emic và về emic TàI LIệU THAM KHảO 1. Basso, Keith & Selby, eds. (1976), Meaning Anthropology. Albuquerque, University of New Mexico Press. 2. Bensa, Alban (1996), De la micro- histoire vers une anthropologie critique, in J.Revel,ed., Jeux d’echelles. La micro-analyse à l’expérience, Paris, Hautes Etudes - Gillimard-Le Seuil:37-70. 3. Berreman, Gerald D. (1962), Behind Many Masks : Ethnography and Impression Management in a Himalayan Village, Lexington, Society for Applied Anthropology. 4. Boas, Franz (1943), “Recent Anthropology”, Science, 98:311-314, 334-337. 5. Feleppa, Robert (1986), “Emics, Etics and Social Objectivity”, Current Anthropology, 27 (3):243-255. (Xem tiếp trang 18) indeterminacy of translation), chúng ta thấy rằng “hiện t−ợng emic th−ờng là không dịch đ−ợc” (emic phenomena are generally untranslatable) và những yêu cầu của việc dịch thuật không đ−ợc trung thực nh− “translational claims are not warrantly assertable as true” (id., tr.247). Để phủ định tính hợp thức miêu thuật của mọi bản dịch, ông đứng ở vị trí về cơ bản giống nh− Popper và Miller và ba hoa với các nhà khoa học xã hội rằng d−ới lý do là dữ liệu đó không thể làm giả nh− khoa học tự nhiên. Việc ghi chép tính trung thực và khả năng đ−ợc chấp nhận riêng cho các ngành khoa học xã hội cũng là việc làm của công tác biên dịch tài liệu.
File đính kèm:
- tiep_can_chu_the_va_khach_the_emicetic.pdf