Tiềm năng phát triển du lịch của chùa Am Các (Huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa)
Tóm tắt: Núi và chùa Am Các là một quần thể di tích - danh thắng độc đáo ở vùng đất
phía Nam tỉnh Thanh Hóa. Cho đến nay, do sự hủy hoại của thiên nhiên và biến động lịch sử,
các kiến trúc cổ của ngôi chùa không còn. Tuy nhiên, núi và chùa Am Các vẫn ẩn chứa nhiều
giá trị lịch sử - văn hóa bước đầu được khẳng định qua các đợt khảo sát, nghiên cứu, khai
quật khảo cổ học và vô số hiện vật còn lại. Nếu biết khai thác, Núi và chùa Am Các có nhiều
tiềm năng phát triển du lịch, sẽ trở thành một điểm du lịch tâm linh, du lịch sinh thái lớn
không chỉ của xứ Thanh mà của cả nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Tiềm năng phát triển du lịch của chùa Am Các (Huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiềm năng phát triển du lịch của chùa Am Các (Huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa)
, nhưng ai cũng cảm thấy sảng khoái bởi cảnh đẹp kỳ thú của núi, rừng xung quanh. Hai bên đường lên chùa là rừng thông lá nhọn, các cánh rừng tái sinh ở phía lưng chừng và đỉnh núi đã phủ kín một màu xanh thẫm cho cả vùng núi non kỳ vĩ. Đặc điểm của dãy núi Am Các là có độ dốc cao, các ngọn núi được phân bố dày đặc, liên tiếp. Riêng trên địa bàn xã Định Hải, khoảng núi Am Các (nơi có chùa Am Các và rừng núi liền mạch) mà địa phương quản lý đã chiếm tới 480 ha, được xác định điểm khởi đầu từ xã Phú Lâm đến điểm kết thúc ở làng Các (xã Các Sơn). Vì dãy núi chạy từ Tây Bắc đến Đông Nam, cho nên núi Am Các trên địa phận Định Hải ở phía Tây giáp với núi thuộc địa bàn Phú Sơn, ở phía Bắc giáp với núi của xã Các Sơn, phía Đông (dưới chân núi) giáp làng Phú Long và hồ Hao Hao (của xã Định Hải), và phía Nam giáp với núi của xã Nguyên Bình. Núi Am Các nối liền với núi E - là núi chung của 3 xã Định Hải, Ninh Hải và Hải Nhân. Toàn bộ phía Đông Nam cũng là núi tiếp núi. Núi Bằng và núi Trạn được nối với núi Bộc, núi Các, núi Sắn để tạo thành một dãy vòng cung bao bọc phía Tây và Nam của xã Định Hải. Ngoài ra, còn rất nhiều núi nhỏ khác như núi Đá Chồng (còn gọi là núi Con) và núi Cao ở phía Bắc xã Định Hải - nơi giáp ranh với xã Hùng Sơn đã tạo ra cho nơi đây một địa hình hiểm trở, nhiều hang động và cảnh quan thiên nhiên kỳ tú của xứ Thanh và nước Việt Nam. Theo các nhà địa lý học, về mặt địa chất, núi Am Các nói riêng và toàn bộ vùng núi phía Tây Nam của tỉnh Thanh Hóa được hình thành chủ yếu bởi các đá trầm tích như đá cát kết và đá phiến, còn các loại đá mác ma hoặc đá vôi chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và rất hiếm gặp. Riêng dãy núi Am Các, với đỉnh cao nhất khoảng trên 500 m lại nằm kề với vùng đồng bằng ven biển nên cũng có ảnh hưởng đến khí hậu sinh cảnh của vùng này như Định Hải, Các Sơn Hướng núi Tây Bắc - Đông Nam vuông góc với hướng gió Đông Bắc, hoặc cao áp từ Tây Thái Bình Dương thổi tới đã làm cho vùng này có mưa nhiều hơn so với các vùng đồng bằng NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 70 khác. Điều đó, cũng góp phần làm cho dãy núi Am Các có nhiều khe, suối nhỏ, góp phần làm cho hồ Hao Hao dưới chân núi lúc nào cũng nhận được nguồn nước bổ sung. Do những đặc điểm trên, trên địa bàn của dãy núi Am Các nói riêng và vùng đồi núi phía Tây Nam của tỉnh nói chung đều là vùng có rừng tự nhiên phát triển tốt với nhiều loại gỗ quý như: lim, lát, sến, gụ và nhiều loài thú lớn như voi, hổ, báo Tuy nhiên, do sức khai thác và tàn phá của con người mà những cánh rừng nguyên sinh đã không còn được như xưa nữa. Nhưng trong vài thập kỷ trở lại đây, nhờ sự chú ý và quan tâm của nhà nước cùng các ngành, các cấp có liên quan, rừng khu vực này đang được tái sinh. Hàng trăm, hàng ngàn hecta rừng phía Tây Nam của tỉnh nói chung và Am Các nói riêng đã được trồng mới với các loại cây như thông, bạch đàn Đến nay, tất cả đều cao tốt, che kín khắp các vùng đất trống đồi trọc. Đi trên con đường lên núi, được ngắm các hàng thông lá nhọn, du khách dễ liên tưởng như đang đi trên không gian của rừng thông Đà Lạt, và lên cao, nhìn thấy rừng tái sinh lại có cảm giác như ở trong không gian của rừng và núi Yên Tử. Tất cả đều rất lãng mạn, nên thơ và nên nhạc. Núi Am Các sớm được ghi tên vào hàng danh sơn của đất nước bởi sự cao lớn và hình thế đặc biệt của nó. Đồng thời, ở dãy núi này, Lê Quý Đôn (trong sách Vân đài loại ngữ) và các tác giả của bộ sách địa chí dưới triều Nguyễn đều có ghi chép đến loại cây trúc hoa và cây chè đã sản sinh rất nhiều ở vùng này. Đây là những loại cây độc đáo mà người dân trong vùng, trong tỉnh đã từng khai thác, chế biến để phục vụ nhu cầu đời sống. Hiện nay, dù rừng tự nhiên đã có nhiều thay đổi, song giống trúc hoa và cây chè đặc sản như sử sách đã ghi chép vẫn còn mọc rất nhiều. Nhân dân các làng, xã dãy núi Am Các vẫn còn trồng giống chè này ở vườn nhà, vừa để uống, vừa để bán. Về ngôi chùa cổ trên núi Am Các, không biết tên chữ của chùa là gì, nhưng từ lâu, dân gian vẫn quen gọi với cái tên quen thuộc, đó là chùa “Am Các” (hay chùa Các). Đây là ngôi chùa cổ có từ rất lâu đời. Qua những dấu tích còn lại, các nhà nghiên cứu và nhà khảo cổ học đã có vài lần tổ chức điền dã, khảo sát tìm ra bằng chứng xác thực để khẳng định đây là ngôi chùa ít nhất có từ thời Trần; tồn tại, phát triển đến tận thời Lê Trung Hưng và Nguyễn. Đây là một quần thể di tích được tọa lạc từ thấp tới cao trên lưng sườn núi Am Các, bao gồm: Chùa Trình - chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Riêng ở chỗ sườn núi phía dưới “chùa Hạ” vẫn còn lưu giữ được khối đá cát kết tự nhiên khá to khắc hình Phật Quan âm ngự trên tòa sen như một bức phù điêu đắp nổi. Đây là tác phẩm hiếm thấy trong hệ thống chùa còn lại ở trong tỉnh và trong nước. Mặc dù mưa, gió, nắng, bão, thời gian làm xói mòn, nhưng bức phù điêu này vẫn là một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật cổ rất quý giá - một bằng chứng sinh động để chúng ta có thể đoán định về đặc điểm kiến trúc và niên đại của ngôi chùa. Rất tiếc là phía sau và hai bên khối đá có phù điêu ấy đều đã bị đất đá và cây rừng phủ lấp, nên chưa thể biết được ở đó có kiến trúc gì không. Còn ở phía trước khối đá phù điêu, các nhà khảo cổ đã làm phát lộ một nền móng vòng cung (được xếp bằng các hòn đá mồ côi) dài 15,3 m, rộng 2,8 m. Có lẽ, đó là vỉa nền bảo vệ cho khối đá phù điêu. Theo tôi, đó có thể là khu vực phế tích của một ngôi chùa cổ có trước cả chùa Hạ. Từ chân núi đến vị trí phế tích có khối đá phù điêu tượng Phật độ chừng 1,5 km và từ đây lên chùa Hạ cũng khoảng 1,5 km. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 71 Lên tới chùa Hạ, chúng ta bắt gặp một không gian khá bằng phẳng tới hơn chục ngàn mét vuông, mà ở đó là phế tích của một ngôi chùa lớn, gồm chùa chính, dải vũ, nhà ở của sư đến cổng tam quan, ao chùa và thành đá bao quanh toàn bộ khu vực, cùng rất nhiều hiện vật đá, gạch, gốm của các thời kỳ Trần, Lê, Nguyễn. Hiện tại, trên nền chùa chính, nhà sư trụ trì đã cho xây dựng một ngôi chùa nhỏ để du khách và người gần, xa đến thắp hương. Các nhà khảo cổ cũng làm phát lộ nền móng ở một số kiến trúc xung quanh chùa, chứng tỏ nơi đây đã từng có những kiến trúc khung gỗ, không có chân cột, có niên đại sớm và có chỗ gạch và móng tường được xếp so le để đỡ cho một kiến trúc khung gỗ có niên đại muộn hơn. Đặc biệt, ở khoảng sân trước chùa mới làm vẫn còn nguyên bệ đá đội tượng hình hoa sen là một di vật quý được chế tác từ đá khối cát kết. Ngoài ra, còn có các hiện vật đá được đơn vị bộ đội (thời chống Mỹ) chất đống ở phía trước sân chùa gồm các chân tảng, bia 4 mặt có chóp hình mái và các hiện vật bằng đá khác Đây đều là những hiện vật được chế tác từ đá xanh mang từ nơi khác đến và không hiểu sao trong điều kiện đường trơn, dốc đứng trên quãng đường khá xa, người xưa đã vận chuyển những hiện vật và khối đá xanh nặng hàng tấn lên được đến đây, có thể là sức kéo của voi chăng? Tất cả chỉ là sự suy đoán! Cách bó móng ở các kiến trúc khu chùa này là xếp chồng các hòn đá cuội có sẵn ở núi. Khi đào lên, các nhà khảo cổ còn thấy nhiều gạch vồ (hình khối chữ nhật) và nhiều mảnh ngói của các thời (nhiều nhất là thời Lê Trung Hưng). Điều đó chứng tỏ di tích chùa gốc đã từng bị tàn phá hoặc sụp đổ trước đây. Có một điều rất lạ là các kiến trúc qua thám sát có niên đại muộn nhất là thời Trần, nhưng không hiểu vì sao qua việc đào bới tự nhiên, hoặc do chỗ núi bị sói mòn, sư trụ trì và dân địa phương lại nhặt được rất nhiều mảnh gốm cổ và sành, sứ, trong đó có cả gốm thế kỷ X, gốm Lý và gốm Trần, Lê, Nguyễn. Điều đó, chứng tỏ trên sườn núi, ở những chỗ bằng phẳng đã từng có con người đến đây cư trú để làm nhà, làm am để thờ tự Đã có một số nhà nghiên cứu suy đoán vùng đất huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia thời Lê Nguyễn là vùng đất huyện Trường Lạc thời Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X), và người đầu tiên suy đoán như vậy chính là giáo sư Đào Duy Anh (Suy đoán này đã được viết trong sách Đất nước Việt Nam qua các thời kỳ). Cũng chính vì vậy, một số nhà nghiên cứu căn cứ vào ghi chép của sách Thiền uyển tập anh (một cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam có ghi lại các tông phái thiền học và sự tích các vị thiền sư nổi tiếng cuối thời Bắc thuộc cho đến các thời Đinh, Lê, Lý, Trần, trong đó có chép cụ thể về vị đại sư Khuông Việt (tức Ngô Chân Lưu) để có suy luận rất đáng chú ý như: “Đại sư Khuông Việt (933 - 1011): Chùa Phật Đà, hương Cát Lỵ, huyện Trường Lạc, họ Ngô tên là Chân Lưu là hậu duệ của Ngô Thuận Đế (một thụy hiệu của vua Ngô Quyền). Ông dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tính tình phóng khoáng, có chí cao xa. Thuở nhỏ theo học Nho, lớn lên theo học Phật, cùng bạn đồng học trụ trì đến chùa Khai quốc thụ giới cụ túc với thiền sư Vân Phong, nhờ đó được đọc rộng kinh điển Phật giáo, hiểu sâu yếu chí thiền học. Năm bốn mươi tuổi, danh tiếng vang dội đến triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng vời về kinh đô (Hoa Lư) để hỏi chuyện. Sư đối đáp hợp ý, được vua phong giữ chức Tăng thống. Năm thứ 2, niên hiệu Thái Bình (971) sư được ban hiệu là Khuông Việt đại sư. Dưới triều Lê Đại Hành, sư đặc biệt được vua kính trọng, phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự Về sau lấy cớ già yếu xin cáo quan về dựng chùa ở núi Du Hí thuộc quận nhà, rồi trụ trì ở đấy, người các NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 72 nơi đến theo học rất đông”. Hiện nay, đã có không ít nhà nghiên cứu nghiêng về quan điểm cho rằng quê quán của vị quốc sư Ngô Chân Lưu là ở huyện Tĩnh Gia ngày nay và ngôi chùa cổ trên núi Am Các rất có thể là ngôi chùa mà vị quốc sư họ Ngô đã từng khởi dựng và trụ trì ở đó cho đến lúc viên tịch. Nhưng rất tiếc, cho đến nay vì chưa có điều kiện khảo sát và khai quật khảo cổ một cách rộng rãi hơn ở toàn bộ khu vực chùa Am Các, cho nên chúng ta vẫn chưa phát hiện được dấu vết kiến trúc của ngôi chùa cổ hồi thế kỷ X. Chỗ có khối đá khắc hình tượng Phật và xung quanh đó, rất có thể có một kiến trúc chùa cổ (sớm hơn nhiều so với chùa Hạ) còn bị vùi lấp bởi núi lở hoặc cây rừng đè trận (?). Đây chính là một ẩn số thú vị để tiếp tục nghiên cứu, khảo sát. Cách chùa Hạ khoảng 500 m theo đường đi lên đỉnh núi là chùa Trung. Phía trước chùa là cả một không gian rộng lớn và khá bằng phẳng. Tuy nhiên, quy mô kiến trúc của chùa Trung lại nhỏ hơn so với quy mô kiến trúc của chùa Hạ. Hiện tại, ở đằng sau và hai bên nền móng chùa, vẫn còn rất nhiều cây trúc hoa mọc xen lẫn trong những lùm cây hoang dại khác. Chùa Thượng tọa lạc ở đỉnh cao nhất của ngọn núi Các. Ở đây, sư trụ trì và dân thập phương đã cùng nhau xây dựng được một tháp chuông và 3 gian nhà để du khách thập phương cầu cúng. Ngoài hệ thống chùa Hạ, Trung, Thượng như vừa nêu, sư trụ trì và dân thập phương còn xây dựng thêm cả ngôi đền Mẫu để những người sùng Mẫu đồng hành cùng Phật giáo. Tại điểm cao chùa Thượng, hoặc chỗ đền Mẫu mới dựng, du khách có thể chiêm ngưỡng một không gian bao la hùng vĩ và thơ mộng của rừng núi điệp trùng, của hồ nước Hao Hao hình cánh dơi, của đồng ruộng, xóm làng vùng ven biển. Những hôm trời quang mây và trong trẻo, phóng tầm mắt về phía đông, có thể thấy được biển cả và đảo Nẹ, đảo Mê cùng những con thuyền lúc ra khơi, vào lộng. Nếu có điều kiện, từ trên núi, du khách sẽ được ngắm bình minh lên từ phía biển hoặc lúc hoàng hôn buông xuống tất cả đều huyền ảo, linh diệu như cõi tiên Có thể nói, núi và chùa Am Các là một quần thể di tích - thắng cảnh đặc biệt và hấp dẫn như danh thắng chùa Hương, Yên Tử. Nếu ai đã từng được đến đây tham quan và chiêm ngưỡng đều có những cảm nhận rằng đây là vùng danh thắng hết sức độc đáo, nên thơ và nên nhạc. Danh thắng này hiển hiện ngay ở vùng đồng bằng ven biển phía nam tỉnh Thanh Hóa nên bất kể du khách gần, xa nào cũng có thể thăm thú một cách dễ dàng, nhanh chóng. Tuy nhiên, để núi và chùa Am Các thu hút được đông đảo du khách gần, xa như chùa Hương, Yên Tử tỉnh, huyện, xã phải sớm vào cuộc lập ra một quy hoạch tổng thể, chi tiết cho việc bảo tồn, tôn tạo di tích - thắng cảnh một cách hợp lý theo lịch trình, thời gian cụ thể. Hiện tại, với sự tích cực vận động công đức của nhân dân trong, ngoài địa phương, sư trụ trì đã làm được một số hạng mục như đường lên núi (được bê tông hóa) cho các phương tiện ô tô, xe máy và khách bộ hành lên xuống được dễ dàng, nhanh chóng hơn, cùng một số hạng mục ở chùa Hạ, chùa Thượng, và đền Mẫu. Và cũng mới chỉ dừng ở đó mà núi và chùa Am Các đã bắt đầu thu hút được rất nhiều du khách. Đấy mới chỉ là sự khởi đầu nhưng cũng rất đáng khích lệ, cần phát huy hơn nữa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1990), Thiền uyển tập anh, đại sư Khuông Việt (933 - 1011), Nxb Văn học, Hà Nội, tr 42 - tr45. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 73 Hiện nay, bằng nhận thức trực quan, có thể thấy tiềm năng du lịch ở núi và chùa Am Các là rất lớn, nhưng đầu tư để tôn tạo và khai thác thế nào cho bền vững quả là điều không dễ dàng. Đây vừa là điểm du lịch tâm linh, nhưng cũng là điểm du lịch sinh thái. Vì vậy, trong quy hoạch bảo tồn, tôn tạo phải chú trọng cả hai nội dung cơ bản đó. Ngoài quy hoạch về di tích, phải quy hoạch cụ thể về sinh thái, cảnh quan của núi và rừng Am Các. Ngay hồ Hao Hao dưới chân núi nếu đầu tư, tôn tạo một cách hợp lý cũng sẽ góp phần thu hút khách. Riêng quần thể (hệ thống) chùa Am Các cũng cần phải được trùng tu, tôn tạo một cách bài bản, khoa học, nhưng cũng phải rất linh hoạt để phù hợp với việc khai thác giá trị trong phát triển du lịch. Tóm lại, để núi và chùa Am Các thực sự trở thành một trọng điểm du lịch sinh thái và tâm linh tiêu biểu ở trong tỉnh, trong nước, chính quyền và các ngành, các cấp có liên quan cần vào cuộc để triển khai nhanh chóng những vấn đề cơ bản như đã nói ở trên. Tài liệu tham khảo [1]. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa. [2]. Đồng Khánh địa dư chí, Nxb Thế giới. [3]. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1990), Thiền uyển tập anh, đại sư Khuông Việt (933 - 1011), Nxb Văn học. POTENTIAL FOR TOURISM DEVELOPMENT OF AM CAC PAGODA (TINH GIA DISTRICT, THANH HOA PROVINCE) Pham Tan Assoc.Prof. Dr. Tran Van Thuc Abstract: Am Cac mountain and pagoda belong to a unique complex of relics and landscapes in the southern region of Thanh Hoa province. So far, due to the natural destruction of nature and historical fluctuations, the ancient architecture of the temple is no longer available. However, Am Cac mountain and pagoda still contain many historical - cultural values that were initially confirmed through archaeological surveys, excavations and many other artifacts. Am Cac mountain and pagoda always contain great potentials for tourism development to become a spiritual and eco - tourism site in Thanh Hoa in particular and nationwide in general. Keywords: Am Cac mountain and pagoda; historical - cultural values; tourism development. Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Thục (ngày nhận bài 18/7/2019; ngày gửi phản biện 20/7/2019; ngày duyệt đăng 30/9/2019).
File đính kèm:
- tiem_nang_phat_trien_du_lich_cua_chua_am_cac_huyen_tinh_gia.pdf