Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh

1. Mở đầu

Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC) là một loại hình

đào tạo có nhiều ưu điểm và mang lại hiệu quả cao. Điều

này đã được thực tiễn của nhiều nước chứng minh và hiện

nay hầu hết các trường đại học, cao đẳng ở các nước tiên

tiến đều áp dụng quản lí đào tạo theo phương thức này.

Trường Đại học Vinh đã bắt đầu áp dụng đào tạo theo

HTTC từ khóa tuyển sinh năm 2007 (khóa 48), cho đến

nay, nhà trường đã thu được những kết quả tích cực.

Công tác đào tạo đã đi vào nền nếp; chương trình đào tạo

đã được điều chỉnh phù hợp; công tác quản lí sinh viên

(SV) và các quy định liên quan đã được xây dựng;

phương pháp giảng dạy của giảng viên và phương pháp

học tập của SV cũng dần được thích ứng. Đặc biệt, có

một chức danh mới xuất hiện và không thể thiếu được

trong quá trình đào tạo đó là cố vấn học tập (CVHT).

CVHT có vai trò quan trọng, là một nhân tố then chốt

trong chuỗi mắt xích quan hệ giữa nhà trường - giảng

viên - thị trường lao động; là đầu mối đảm bảo sự phối

hợp giữa tính chủ động của SV với sự tư vấn, định hướng

của giảng viên trong quá trình học tập tại trường. Việc

thực hiện vai trò, nhiệm vụ trong hoạt động CVHT có ý

nghĩa khẳng định sự thành công hay thất bại của phương

thức đào tạo theo HTTC.

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh trang 1

Trang 1

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh trang 2

Trang 2

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh trang 3

Trang 3

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh trang 4

Trang 4

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh trang 5

Trang 5

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 7000
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh
tính đột phá. 
2.3. Nguyên nhân của thực trạng 
Trong bất kì phương thức đào tạo nào, nhân tố quyết 
định kết quả dạy học cũng là đội ngũ người dạy và người 
học. Chuyển sang đào tạo theo HTTC với triết lí “lấy hoạt 
động của người học làm trung tâm”, do vậy, nhận thức và 
hiểu biết về các đặc điểm của quá trình dạy học theo HTTC 
của mọi đối tượng liên quan trong đào tạo chưa đầy đủ, 
thấu đáo. Ngay chính bản thân CVHT chưa thấy hết được 
vị trí, vai trò cố vấn của mình đối với SV để hoàn thành tốt 
nhiệm vụ. Họ xem giảng dạy là công tác chủ đạo, còn 
CVHT chỉ giữ vai trò kiêm nhiệm, ngắn hạn. 
Một trong những nguyên nhân chính cho những tồn tại 
này là do một số quy định về công tác CVHT chưa thực 
sự hợp lí, tạo sự quá tải trong khối lượng công việc mà 
CVHT phải thực hiện trong khi những nhiệm vụ đó lại 
trùng lặp với chức năng của một số đơn vị trong trường. 
Việc phân nhiệm một số công việc giữa CVHT, Trợ lí đào 
tạo, Trợ lí quản lí SV, Phòng Đào tạo, Phòng Công tác 
chính trị HS-SV, Trung tâm Hỗ trợ SV và Quan hệ doanh 
nghiệp chưa rõ ràng dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm cho 
nhau và xử lí công việc còn tốn kém nhiều thời gian. 
Việc thay đổi CVHT hàng năm cũng là nguyên nhân 
khiến công tác CVHT không đạt hiệu quả cao. Nhiều 
giảng viên xin không tham gia công tác này, đặc biệt là 
giảng viên lớn tuổi, có cấp bậc quản lí, hoặc những cán 
bộ tham gia các lớp học, bồi dưỡng nâng cao trình độ 
chuyên môn, việc cá nhân, gia đình... dẫn đến có sự 
chuyển giao giữa các CVHT nên việc theo dõi, nắm bắt 
tình hình học tập, rèn luyện của SV bất lợi hơn. 
Đội ngũ CVHT chưa được sàng lọc và đào tạo về kĩ 
năng tư vấn, chưa phát huy hết vai trò cố vấn cho người 
học. Trong khi, hầu hết các nước trên thế giới, CVHT đều 
được đào tạo từ các ngành trợ giúp hoặc tốt nghiệp từ 
ngành Tâm lí học, Giáo dục học hoặc Công tác xã hội. Mỗi 
SV có một kế hoạch học tập và thời khóa biểu riêng nên 
rất khó để có thể sắp xếp thời gian gặp lớp hàng tuần. Do 
đó, cả SV và CVHT đều ngại gặp để tư vấn, hầu hết các 
buổi gặp gỡ SV đều là ngoài giờ làm việc. Ngoài ra, tính 
chất không bắt buộc của việc gặp gỡ CVHT dẫn đến số 
lượng SV tìm gặp CVHT còn rất hạn chế. Phần lớn SV 
chưa có sự hiểu biết đầy đủ về phương thức đào tạo này. 
Họ chưa chủ động đến gặp CVHT để xin tư vấn khi cần. 
Bên cạnh đó, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của 
CVHT chưa được xem là tiêu chuẩn bình xét thi đua 
hàng năm. Trường, khoa/viện và bộ môn không có cơ 
chế theo dõi và xử lí các trường hợp CVHT không làm 
tốt công tác cố vấn của mình. 
2.4. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt 
động của đội ngũ cố vấn học tập ở Trường Đại học Vinh 
2.4.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cố vấn học tập và 
sinh viên về vai trò, nhiệm vụ của cố vấn học tập 
Nâng cao vai trò, nhận thức về tầm quan trọng của 
CVHT đối với các lực lượng giáo dục trong nhà trường, 
đặc biệt là đối với đội ngũ giảng viên tham gia làm công 
tác CVHT cũng như SV là công việc hết sức quan trọng, 
là tiền đề để thực hiện hiệu quả các biện pháp khác. 
CVHT hiểu đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của 
mình, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính 
tự giác, tự nguyện, tâm huyết với công việc, đồng thời 
tạo sự thống nhất cao trong nhận thức của cán bộ quản lí 
và toàn thể cán bộ trong nhà trường về ý nghĩa và tầm 
quan trọng của hoạt động CVHT để từ đó có được sự 
phối hợp, sự đồng thuận cao trong việc thực hiện nhiệm 
vụ. Vì vậy, Nhà trường cần: 
- Cung cấp thông tin cho các lực lượng tham gia giáo 
dục trong nhà trường và SV thấy được vai trò, nhiệm vụ 
CVHT thông qua các văn bản quy định hoặc qua các 
cuộc hội họp. 
- Đưa ra mục tiêu, những kì vọng mà nhà trường 
mong muốn ở CVHT để họ có ý thức trách nhiệm hơn, 
tự nỗ lực, cố gắng đóng góp cho nhà trường bằng cách 
giới hạn tỉ lệ tình trạng SV bị cảnh báo thôi học, bị buộc 
thôi học, bị xử lí kỉ luật ở các khoa/viện. 
- Xác định trách nhiệm của CVHT đối với việc nâng 
cao chất lượng đào tạo. CVHT phải thấy rõ trách nhiệm 
của mình trong sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học để từ 
đó phát huy tốt vai trò của mình, khắc phục những nhận 
thức chưa đúng đắn, chưa đầy đủ về vai trò của CVHT. 
2.4.2. Xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cố vấn học tập 
- Bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội 
ngũ CVHT 
Hoạt động CVHT ở trường đại học rất đa dạng, 
phong phú, liên quan đến học tập, rèn luyện và tất cả mọi 
mặt trong đời sống của SV, đòi hỏi CVHT phải có nhiều 
thời gian, dành nhiều công sức và tâm huyết. Bên cạnh 
đó, còn đòi hỏi người CVHT cần có những kĩ năng sư 
phạm chuyên biệt như: kĩ năng tư vấn, kĩ năng lắng nghe, 
kĩ năng tìm hiểu đặc điểm tâm lí SV, kĩ năng giáo dục 
thuyết phục, kĩ năng hòa nhập cộng đồng, Các kĩ năng 
trên là những công cụ đắc lực rất cần thiết cho hoạt động 
CVHT. Không chỉ nắm vững các quy chế, quy định về 
công tác đào tạo, công tác SV, CVHT phải hội tụ đầy đủ 
các kĩ năng nghiệp vụ của mình để thuyết phục, tạo niềm 
tin ở SV, từ đó tiến hành công việc được hiệu quả. Vì 
vậy, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là nhiệm vụ quan 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 79-83; 225 
83 
trọng, đáp ứng nhu cầu, quyền lợi cho các CVHT. Nhà 
trường cần phải thường xuyên tạo cơ hội cho CVHT 
được tham gia các hội thảo, các diễn đàn về SV. Các hoạt 
động này nên tổ chức thường xuyên, liên tục nhằm xây 
dựng một hệ thống CVHT chuyên nghiệp, có kĩ năng 
cao. Công tác bồi dưỡng còn giúp cho các CVHT củng 
cố kiến thức, kinh nghiệm hoạt động, tạo sự tự tin, lòng 
yêu nghề và nâng cao ý thức trách nhiệm của các CVHT. 
 Nhà trường cần bổ sung các tài liệu tập huấn về công 
tác CVHT. Từng bước xây dựng các tài liệu tập huấn 
chuyên sâu về lĩnh vực này, tham khảo các tài liệu về 
công tác CVHT trong và ngoài nước, hoặc mời các 
chuyên gia về CVHT ở các nước tiên tiến đến tập huấn 
và khuyến khích CVHT tham gia tích cực. Các tài liệu 
để phục vụ tập huấn và bồi dưỡng CVHT có thể theo 
từng chủ đề như: chương trình đào tạo; kĩ năng tư vấn; kĩ 
năng giao tiếp, ứng xử; tâm lí người học 
- Quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ cố vấn học tập 
Quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ CVHT là một khâu cơ 
bản trong công tác cán bộ, nhằm chủ động tạo nguồn 
nhân sự trẻ, tập hợp được nhiều nhân tài, làm cơ sở cho 
việc đào tạo, bố trí, sử dụng và phát triển đội ngũ CVHT 
bảo đảm về số lượng, chất lượng, có cơ cấu hợp lí và sự 
chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ. Với phương 
châm đổi mới và có tính kế thừa, công tác quy hoạch và 
tạo nguồn cần được bổ sung hàng năm. Lựa chọn những 
giảng viên nhiệt huyết, có tinh thần trách nhiệm cao trong 
công việc, biết nắm bắt tâm lí lứa tuổi SV để đưa vào quy 
hoạch, tạo nguồn. 
- Phân công, bố trí đội ngũ CVHT 
Phân công CVHT phù hợp với năng lực và sở trường 
của mỗi cá nhân CVHT và kế hoạch của nhà trường. Lựa 
chọn CVHT đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ 
và có thể đảm nhận nhiệm vụ lâu dài, hạn chế việc thay 
đổi CVHT giữa năm học, khóa học. 
2.4.3. Bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các văn bản về hoạt 
động cố vấn học tập 
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các chức danh 
và các đơn vị để rà soát, phân công nhiệm vụ phù hợp, 
trách chồng chéo. Xem xét, chuyển giao một số công 
việc CVHT đang đảm nhận cho các chức danh khác liên 
quan để họ có thời gian làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa 
học, giảng dạy và tham gia hoạt động CVHT có chất 
lượng hơn. 
2.4.4. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động cố vấn 
học tập 
- Nhà trường cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá 
việc thực hiện hoạt động CVHT theo kế hoạch hoặc đột 
xuất. Việc đánh giá hoạt động CVHT cần phải chính xác 
vì vậy phải lưu ý đến ý kiến từ nhiều kênh thông tin để 
kết quả đánh giá được thuyết phục hơn. 
+ Xây dựng chuẩn đánh giá đội ngũ CVHT từ đầu 
năm học để làm căn cứ đánh giá 
+ Đánh giá qua chất lượng SV về học tâp và rèn luyện 
- Qua quá trình kiểm tra, đánh giá, lãnh đạo nhà trường 
cần phải tổng kết, thông báo trong toàn trường để CVHT 
thấy được mặt mạnh, mặt yếu của mình, từ đó tìm cách 
khắc phục, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 
2.4.5. Tạo động lực cho đội ngũ cố vấn học tập 
- Giảm giờ dạy định mức theo quy định chung của 
Bộ GD-ĐT, quy định của Trường Đại học Vinh đối với 
giảng viên làm công tác CVHT kiêm nhiệm để họ có 
thêm thời gian nghiên cứu khoa học và hoạt động CVHT. 
- Hỗ trợ phụ cấp theo Quy chế chi tiêu nội bộ, hỗ trợ 
tiền điện thoại, văn phòng phẩm để họ cảm thấy được 
quan tâm, được chia sẻ. Một số giảng viên do chế độ phụ 
cấp không đảm bảo nên không đầu tư nhiều đến công tác 
CVHT, dẫn đến tình trạng không nhiệt tình trong công 
việc, làm việc theo ngẫu hứng và qua loa. 
- Có chế độ khen thưởng kịp thời đối với những 
CVHT làm tốt nhiệm vụ. Công nhận những thành tích 
mà CVHT đạt được để khích lệ, động viên tinh thần họ. 
- Xây dựng môi trường làm việc hiệu quả, tạo cảm 
giác nghiêm túc nhưng không căng thẳng, áp lực. 
- Giao quyền và trách nhiệm cho CVHT để CVHT 
làm việc hưng phấn, muốn đóng góp nhiều cho khoa/viện 
và nhà trường. 
3. Kết luận 
Việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo 
theo HTTC như một cuộc cách mạng mang tính chất đột 
phá, thay đổi tư duy cả người dạy và người học. Đào tạo 
theo HTTC đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện từ chỗ nhà 
trường đóng vai trò quyết định kế hoạch đào tạo cho tất 
cả SV thì bây giờ SV đóng vai trò quyết định trong xây 
dựng kế hoạch đào tạo cho bản thân. Đào tạo theo HTTC 
làm cho SV năng động hơn, hoạt động đào tạo linh hoạt 
và mềm dẻo hơn, nhưng cũng làm cho công tác quản lí 
điều hành phức tạp, phát sinh nhiều yếu tố. 
Qua 12 năm thực hiện đào tạo theo HTTC tại Trường 
Đại học Vinh, chất lượng đào tạo của nhà trường đã từng 
bước được nâng lên đáng kể, kết quả này có một phần 
đóng góp quan trọng của đội ngũ CVHT. Tuy vậy, nhìn 
từ thực trạng, công tác CVHT vẫn chưa hoàn toàn đáp 
ứng cao sự đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của 
nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, muốn đạt 
được hiệu quả tốt hơn cần phải có sự hợp tác, nỗ lực từ 
phía nhà trường, các khoa/viện, đội ngũ CVHT và SV, 
trong đó mối quan hệ giữa SV và CVHT là mối quan hệ 
trọng yếu và việc thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của 
CVHT sẽ phát huy được tính tích cực của phương thức 
đào tạo theo HTTC. 
(Xem tiếp trang 225) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 222-225 
225 
không phải chủ đề nào cũng có thể thực hiện được một cách 
khả thi và có hiệu quả. Vì vậy, để việc đánh giá quá trình 
thông qua các bài toán PISA hiệu quả hơn trong dạy học 
Toán, theo chúng tôi, GV cần: - Tăng cường những bài toán 
theo dạng thức PISA có nội dung thực tiễn vào nội dung 
kiểm tra, đánh giá ở cấp trung học, đặc biệt là ở trung học 
cơ sở; - Tăng cường xây dựng các bài toán theo dạng thức 
PISA có nội dung thực tiễn nhằm rèn luyện các kĩ năng cần 
thiết cho HS như: kĩ năng đọc hiểu đồ thị, biểu đồ, kĩ năng 
tính toán kết hợp với ước lượng về chiều dài, về chiều rộng, 
thể tích,...; - Tăng cường nội dung Xác suất và Thống kê 
trong dạy học ở cấp trung học cơ sở để tiếp cận nền giáo dục 
các nước trong khu vực và trên thế giới. Từng bước đưa ra 
các câu hỏi dạng thức PISA vào nội dung kiểm tra để đánh 
giá kiến thức toán học của HS. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Tài liệu tập huấn Chương trình 
đánh giá học sinh quốc tế PISA. 
[2] Trần Vui (2013). Đánh giá hiểu biết toán của học 
sinh 15 tuổi, chương trình đánh giá học sinh quốc tế 
PISA. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[3] The PISA (2003). Assessement framework, 
Mathematics, reading, science and problem solving, 
Knowledge and skills. Programme for international 
student Assessement. 
[4] Stacey, K. (2011). The PISA view of mathematical 
literacy in Indonesia. Journal on Mathematics 
Education, Vol. 2(2), pp. 95-126. 
[5] Wynne Harlen (2007). Assessment of Learning. 
SAGE Publications 
[6] Mazzeo, J. - Von Davier, M. (2008). Review of the 
Programme for International Student Assessment 
(PISA) test design: Recommendations for fostering 
stability in assessment results. Education Working 
Papers EDU/PISA/GB (2008), Vol. 28, pp. 23-24. 
[7] Nguyễn Bá Kim (2007). Phương pháp dạy học môn 
Toán. NXB Đại học Sư phạm. 
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG 
(Tiếp theo trang 83) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trường Đại học Vinh (2012). Quy định chức năng, 
nhiệm vụ cố vấn học tập (kèm theo Quyết định số 
3814/QĐ-ĐHV ngày 10/12/1012). 
[2] Trần Thị Minh Đức (chủ biên, 2012). Cố vấn học 
tập trong các trường đại học. NXB Đại học Quốc 
gia Hà Nội. 
[3] Nguyễn Thị Út Sáu (2013). Một số vấn đề về lí luận 
hoạt động tư vấn học tập cho sinh viên của cố vấn 
học tập ở các trường đại học. Tạp chí Giáo dục, số 
318, tr 17-19. 
[4] Trường Đại học Vinh (2013). Hướng dẫn quy trình 
xử lí học vụ cho sinh viên hệ chính quy (kèm theo 
công văn số 3389/ĐHV-ĐT ngày 10/10/2013). 
[5] Bộ GD-ĐT (2007). Quy chế đào tạo đại học và cao 
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành 
kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ/BGD&ĐT 
ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). 
[6] Nguyễn Thị Bích - Nguyễn Ngọc Trân (2018). Vai trò 
của cố vấn học tập trong việc nâng cao chất lượng học 
tập của sinh viên tại Trường Đại học Đồng Tháp. Tạp 
chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 9, tr 54-58. 
[7] Phạm Thị Thanh Hải (2011). Một số nội dung của 
công tác cố vấn học tập trong đào tạo theo hệ thống 
tín chỉ Hoa Kì và kinh nghiệm đối với Việt Nam. Tạp 
chí Giáo dục, số 268, tr 26-28. 
[8] Nguyễn Duy Mộng Hà (2012). Đẩy mạnh công tác 
cố vấn học tập và tư vấn sinh viên góp phần nâng 
cao chất lượng dạy và học trong trường đại học theo 
học chế tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 291, tr 32-35. 
MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG 
(Tiếp theo trang 131) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Cung (2006). Những vấn đề tâm lí cơ bản 
trong hoạt động quản lí, giáo dục phạm nhân, trại 
viên, học sinh trường giáo dưỡng. Học viện Cảnh 
sát Nhân dân. 
[2] Hoàng Thị Bích Ngọc (1997). Nghiên cứu tâm lí 
phạm nhân loại tội phạm hình sự nhằm góp phần 
nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lí giáo dục 
trong các trại giam hiện nay. Đề tài nghiên cứu cấp 
bộ, Bộ Công an, Mã số 54. 
[3] Hoàng Cung (2003). Tâm lí học hoạt động quản lí, 
giáo dục phạm nhân, trại viên và học sinh trường 
giáo dưỡng. Học viện Cảnh sát nhân dân. 
[4] Chu Văn Đức (2009). Nghiên cứu sự thích ứng của 
phạm nhân với chế độ sinh hoạt và chế độ lao động tại 
trại giam. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Viện Tâm lí học. 
[5] Nguyễn Hữu Toàn (2013). Tự ý thức về hành vi 
phạm tội và hành vi chấp hành hình phạt tù của 
phạm nhân. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Viện Khoa 
học Xã hội. 
[6] Trần Hiệp - Đỗ Long (1997). Tâm lí học - Những 
vấn đề lí luận. NXB Khoa học Xã hội. 
[7] Nguyễn Khắc Viện (1998). Từ điển tâm lí học. NXB 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
[8] Phạm Minh Hạc - Lê Khanh - Trần Trọng Thủy 
(1999). Tâm lí học (tập 1). NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_hoat_dong_cua_co_van_hoc_tap_o_truong_dai_hoc_vin.pdf