Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Đặc trưng hoạt động ngân hàng là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch

vụ ngân hàng với đối tượng chủ yếu là các công cụ tài chính mà giá trị của

chúng thường xuyên biến động theo giá thị trường. Do vậy, để đảm bảo an

toàn trong hoạt động cũng như cung cấp thông tin một cách minh bạch thì

các công cụ tài chính cần được công bố theo giá trị thực của nó. Kế toán

giá trị hợp lý (GTHL) sẽ giải quyết được yêu cầu này. Kế toán GTHL tại

các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cũng đã bước đầu được thực

hiện, tuy nhiên so với chuẩn mực kế toán quốc tế thì vẫn còn nhiều hạn chế

cả về cơ sở pháp lý cũng như thực tế áp dụng. Thông qua khảo sát báo cáo

tài chính (BCTC) của 35 NHTM Việt Nam năm 2018, bài viết đánh giá thực

trạng áp dụng kế toán GTHL của các NHTM Việt Nam, chỉ ra những hạn

chế của vấn đề này, là cơ sở gợi mở cho những khuyến nghị áp dụng kế toán

GTHL tại các NHTM Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 1

Trang 1

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 2

Trang 2

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 3

Trang 3

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 4

Trang 4

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 5

Trang 5

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 6

Trang 6

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 7

Trang 7

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 8

Trang 8

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 9

Trang 9

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 18740
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
uyên tắc giá gốc.
Các giao dịch ngoại tệ: 100% BCTC các 
ngân hàng thuyết minh: Các khoản mục tài 
sản và nợ phải trả có gốc tiền tệ khác với 
VND được quy đổi sang VND theo tỷ giá áp 
dụng tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Các 
khoản mục phi tiền tệ có gốc ngoại tệ phát 
sinh trong năm được quy đổi sang VND 
theo tỷ giá hối đoái tại ngày giao dịch. Các 
giao dịch thu nhập và chi phí bằng ngoại 
tệ được hạch toán bằng VND trên báo cáo 
kết quả kinh doanh theo tỷ giá giao ngay tại 
ngày giao dịch.
Trình bày và thuyết minh thông tin về công 
cụ tài chính theo Thông tư 210/2009/TT-
BTC: Mặc dù hiện tại chưa có CMKT Việt 
Nam về công cụ tài chính nhưng Bộ Tài 
chính đã ban hành Thông tư 210/2009/TT-
BTC v/v “hướng dẫn áp dụng Chuẩn mực 
kế toán quốc tế về trình bày BCTC và thuyết 
minh thông tin đối với công cụ tài chính”. 
Khảo sát thuyết minh BCTC năm 2018 của 
35 NHTM cho thấy có 3 nhóm ngân hàng: 
i) các ngân hàng không thuyết minh về công 
cụ tài chính theo Thông tư 210/2009/TT-
BTC: có 5/35 NHTM được khảo sát; ii) các 
ngân hàng thuyết minh về phân loại, thời 
điểm ghi nhận và dừng ghi nhận công cụ tài 
chính: có 8/35 NHTM được khảo sát. Các 
ngân hàng này chỉ thuyết minh về các tài 
sản tài chính, nợ phải trả tài chính phát sinh 
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng 
và phân loại theo các nhóm theo chuẩn mực 
kế toán quốc tế; iii) các ngân hàng thuyết 
minh về phân loại, thời điểm ghi nhận và 
dừng ghi nhận công cụ tài chính; giá trị hợp 
lý của công cụ tài chính so với giá trị ghi 
sổ của công cụ tài chính: có 22/35 NHTM 
được khảo sát. Các ngân hàng này, bên 
Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 218- Tháng 7. 2020
cạnh thuyết minh về các tài sản tài chính, 
nợ phải trả tài chính phát sinh trong hoạt 
động kinh doanh của ngân hàng và phân 
loại theo các nhóm theo CMKT quốc tế, 
còn thuyết minh về việc ghi nhận và dừng 
ghi nhận công cụ tài chính cũng như GTHL 
của công cụ tài chính ở thời điểm báo cáo 
so với giá trị ghi sổ.
Chứng khoán kinh doanh: 100% thuyết 
minh BCTC của các ngân hàng được khảo 
sát thuyết minh về nguyên tắc ghi nhận 
chứng khoán kinh doanh và giá trị công 
bố trên BCTC như sau: Chứng khoán kinh 
doanh được ghi nhận ban đầu theo giá gốc, 
sau đó được ghi nhận theo giá trị thấp hơn 
giữa giá trị trên sổ sách và giá thị trường. 
Chứng khoán đầu tư: 100% thuyết minh 
BCTC của các ngân hàng được khảo sát 
thuyết minh về nguyên tắc ghi nhận chứng 
khoán đầu tư và giá trị công bố trên BCTC 
theo hướng dẫn của NHNN.
Góp vốn đầu tư dài hạn: 100% BCTC của 
các ngân hàng thuyết minh về các khoản 
đầu tư dài hạn như sau:
- Ghi nhận ban đầu: theo giá gốc.
- Ghi nhận tiếp theo: sau ghi nhận ban đầu, 
các khoản góp vốn, đầu tư dài hạn được ghi 
nhận theo giá gốc trừ dự phòng giảm giá. 
Trên BCTC hợp nhất, các khoản đầu tư vào 
công ty liên kết, liên doanh được phản ánh 
theo phương pháp vốn chủ sở hữu.
Tài sản cố định: 100% BCTC của các ngân 
hàng được khảo sát ghi nhận các khoản 
mục tài sản này tuân thủ theo các CMKT 
hiện hành, việc sử dụng giá trị hợp lý nếu 
có chỉ nhằm mục đích ghi nhận ban đầu 
thay giá gốc.
Thuê tài sản: 100% các ngân hàng có thuê 
tài chính tài sản cố định (TSCĐ) đều thuyết 
minh việc ghi nhận ban đầu TSCĐ thuê tài 
chính theo đúng CMKT Việt Nam VAS 06 
“Thuê tài sản”.
Bất động sản đầu tư: Có 65% các ngân 
hàng có khoản mục bất động sản đầu tư 
thuyết minh “Bất động sản đầu tư được 
ghi nhận theo nguyên giá trừ đi hao mòn 
lũy kế”. Có 35% các NH có khoản mục bất 
động sản đầu tư thuyết minh theo 2 loại bất 
động sản đầu tư: (i) Bất động sản đầu tư 
cho thuê; (ii) Bất động sản đầu tư nắm giữ 
chờ tăng giá.
Thứ ba, các ngân hàng đã và đang lập 
BCTC theo IFRS, đó chủ yếu là các ngân 
hàng thuộc nhóm 10 ngân hàng được 
NHNN lựa chọn thực hiện thí điểm Basel 2 
như: VCB, BIDV, Vietinbank, Sacombank, 
VIB, MB, Techcombank, VP Bank, 
Maritimebank, ACB Kết quả khảo sát 
cho thấy việc áp dụng kế toán GTHL và lập 
BCTC theo IFRS của các ngân hàng chia 
làm 2 nhóm: nhóm thứ nhất, các ngân hàng 
lập BCTC theo IFRS trên cơ sở chuyển đổi 
từ báo cáo tài chính theo CMKT Việt Nam 
đã được kiểm toán và có sự hỗ trợ chuyển 
đổi thủ công của công ty kiểm toán; nhóm 
thứ hai là áp dụng kế toán GTHL trong ghi 
nhận ban đầu và lập BCTC theo IFRS.
3. Đánh giá chung về áp dụng kế toán 
giá trị hợp lý tại các ngân hàng thương 
mại Việt Nam 
Với những nội dung khảo sát về thực trạng 
áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM Việt 
Nam như trên, có thể đánh giá khái quát 
lại trên hai mặt những kết quả đạt được và 
những hạn chế như sau:
3.1. Những kết quả đạt được
TRỊNH HỒNG HẠNH
27Số 218- Tháng 7. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Thứ nhất, cơ sở pháp lý chung về kế toán 
GTHL: Ngay từ khi bắt đầu soạn thảo bộ 
CMKT Việt Nam, cơ quan soạn thảo đã 
tham khảo bộ CMKT quốc tế, theo đó 
GTHL đã được nghiên cứu vận dụng có 
chọn lọc phù hợp với các điều kiện của nền 
kinh tế, chính trị và xã hội. Bộ Tài chính 
đã nhanh chóng nghiên cứu ban hành bộ 
tiêu chuẩn thẩm định giá, đặc biệt là đưa ra 
hướng dẫn chi tiết thực hiện 5 phương pháp 
định giá. 
Bên cạnh các CMKT, thông tư hướng dẫn 
chung của Bộ Tài chính trong lĩnh vực kế 
toán ngân hàng, với các đối tượng kế toán 
mà giá trị có thể biến động theo giá thị 
trường như chứng khoán kinh doanh, chứng 
khoán đầu tư sẵn sàng để bán, công cụ phái 
sinh thì NHNN đã có hướng dẫn về cách ghi 
nhận và công bố thông tin để phản ánh được 
giá trị gần sát với giá trị thực của chúng và 
phù hợp với điều kiện của thị trường Việt 
Nam. 
Thứ hai, về thực trạng áp dụng kế toán 
GTHL tại các NHTM Việt Nam: Hầu hết 
các NHTM Việt Nam tuân thủ theo đúng 
chuẩn mực chế độ kế toán Việt Nam quy 
định về kế toán GTHL, trình bày và công 
bố thông tin các đối tượng kế toán trên 
BCTC.
Thứ ba, tự nguyện áp dụng kế toán GTHL 
theo chuẩn mực quốc tế: Đã có một số các 
NHTM tự nguyện áp dụng kế toán GTHL 
theo chuẩn mực quốc tế xuất phát từ chính 
nhu cầu tự thân của các ngân hàng. Mặc 
dù việc áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn 
mực quốc tế của các ngân hàng ở các mức 
độ khác nhau, song đây là dấu hiệu tốt 
cho việc định hướng áp dụng bắt buộc kế 
toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại các 
NHTM Việt Nam.
3.2. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, kế toán 
GTHL tại các NHTM Việt Nam còn có 
những hạn chế sau: 
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý của kế toán 
GTHL: Trên cơ sở tổng hợp nghiên cứu và 
so sánh các chuẩn mực, chế độ kế toán hiện 
hành về GTHL mà các NHTM Việt Nam 
đang áp dụng với các chuẩn mực quốc tế, 
cho thấy cơ sở pháp lý của kế toán GTHL 
còn chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ: i)Khái 
niệm về GTHL ở trong các văn bản cơ sở 
pháp lý là không thống nhất, bên cạnh đó 
cũng không giải thích các thuật ngữ trong 
khái niệm, gây khó hiểu cho người đọc; ii) 
Các quy định về kế toán GTHL trong hệ 
thống CMKT còn rất hạn chế và mới dừng 
lại ở việc sử dụng GTHL để ghi nhận ban 
đầu thay cho giá gốc; iii) Chưa có chuẩn 
mực nào qui định về đo lường GTHL ngoại 
trừ đoạn 24 của VAS 04 “TSCĐ vô hình” 
có đề cập đến phương pháp xác định GTHL 
của TSCĐ vô hình; iv) Việt Nam chưa có 
CMKT quy định về suy giảm giá trị của 
tài sản như CMKT quốc tế; v) Những công 
văn, chế độ kế toán của NHNN hướng dẫn 
cho một số đối tượng kế toán ngân hàng có 
sự biến động giá trị thường xuyên mặc dù 
đã tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, song 
vẫn có sự khác biệt nhất định so với chuẩn 
mực quốc tế, dẫn đến có sự khác biệt về 
thông tin kế toán cung cấp đối với các đối 
tượng kế toán đó nếu áp dụng theo chế độ 
kế toán của Việt Nam và theo chuẩn mực 
quốc tế.
Những hạn chế về cơ sở pháp lý này sẽ ảnh 
hưởng đến quá trình áp dụng kế toán GTHL 
tại các NHTM Việt Nam, tạo nên sự không 
thống nhất giữa các ngân hàng, khiến các 
yêu cầu về chất lượng của thông tin kế toán 
không được đảm bảo, từ đó ảnh hưởng đến 
Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 218- Tháng 7. 2020
quyết định của những người sử dụng thông 
tin kế toán ngân hàng cung cấp.
Thứ hai, những hạn chế trong việc áp dụng 
kế toán giá trị hợp lý tại các NHTM Việt 
Nam theo chuẩn mực chế độ kế toán Việt 
Nam: i) BCTC của các ngân hàng được 
lập và trình bày theo chuẩn mực, chế độ 
kế toán Việt Nam có cả những cảnh báo 
đối với người đọc về hạn chế sử dụng các 
báo cáo này do những khác biệt đáng kể 
với các chuẩn mực và thông lệ chung được 
chấp nhận rộng rãi ở các nước và lãnh thổ 
khác ngoài Việt Nam. Các cảnh báo này có 
ảnh hưởng không tốt tới uy tín của hệ thống 
BCTC và độ tin cậy của cộng đồng đầu tư 
quốc tế đối với các thông tin tài chính của 
các NHTM Việt Nam; ii) Cũng như kết 
quả nghiên cứu thực trạng cơ sở pháp lý 
về kế toán GTHL ở Việt Nam, các NHTM 
Việt Nam chủ yếu vận dụng GTHL trong 
trường hợp ghi nhận ban đầu thay cho giá 
gốc; iii) Ở một số giao dịch còn có một số 
ngân hàng chưa áp dụng đúng CMKT quy 
định; iv) Việc trình bày và công bố thông 
tin về các công cụ tài chính còn chưa nhất 
quán giữa các ngân hàng với nhau. Những 
hạn chế này một phần chính là hệ quả của 
những hạn chế về cơ sở pháp lý của việc 
áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM hiện 
nay. 
Thứ ba, áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn 
mực quốc tế tại một số ngân hàng tự nguyện 
áp dụng vẫn còn hạn chế: i) Số lượng ngân 
hàng tự nguyện áp dụng kế toán GTHL theo 
chuẩn mực quốc tế còn thấp (20%); ii) Hầu 
hết các ngân hàng lập BCTC theo IFRS 
trên cơ sở chuyển đổi BCTC theo CMKT 
Việt Nam sang và có sự hỗ trợ chuyển đổi 
thủ công của công ty kiểm toán ; iii) Với 
những ngân hàng thực hiện chế độ kế toán 
GTHL và BCTC theo chuẩn mực quốc tế: 
mặc dù đã áp dụng việc xác định GTHL 
theo các kỹ thuật định giá tương ứng với 
03 cấp độ của các yếu tố đầu vào như IFRS 
13 quy định, tuy nhiên trong một số trường 
hợp không có đủ thông tin về các yếu tố 
đầu vào để sử dụng kỹ thuật định giá nhằm 
xác định GTHL của các khoản mục tài sản, 
nợ phải trả dẫn đến các NH đó phải công 
bố GTHL với giả định bằng xấp xỉ giá trị 
ghi sổ hoặc không công bố GTHL của một 
số khoản mục tài sản, nợ phải trả. 
Nguyên nhân của những tồn tại trên có thể 
xuất phát từ các yếu tố như: môi trường 
pháp lý, môi trường nghề nghiệp, môi 
trường kinh doanh, môi trường kinh tế, 
môi trường quốc tế và yếu tố văn hóa tâm 
lý. Trong đó, môi trường kinh tế và kinh 
doanh tạo ra các động cơ cho việc áp dụng 
kế toán GTHL, trong khi môi trường quốc 
tế lại tạo ra các áp lực cho việc áp dụng kế 
toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế. Môi 
trường pháp lý và môi trường nghề nghiệp 
ảnh hưởng đến quá trình triển khai áp dụng 
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế. 
Cuối cùng, môi trường văn hóa tác động 
đến mức độ sẵn sàng chấp nhận các chuẩn 
mực quốc tế của lãnh đạo các tổ chức, là 
yếu tố có thể đẩy nhanh hoặc trì hoãn quá 
trình triển khai áp dụng kế toán GTHL theo 
chuẩn quốc tế tại các quốc gia. Tuy nhiên, 
mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến 
việc áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM 
Việt Nam là nhiều hay ít thì cần có những 
khảo sát, đánh giá cụ thể ở những nghiên 
cứu tiếp theo. 
4. Kết luận
Với sự cần thiết của kế toán GTHL do 
những lợi ích của nó mang lại, cùng xu 
hướng hội nhập kế toán quốc tế, việc áp 
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc 
tế tại các NHTM Việt Nam là một xu thế tất 
yếu. Theo đó, đánh giá thực trạng áp dụng 
TRỊNH HỒNG HẠNH
29Số 218- Tháng 7. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
kế toán GTHL tại các NHTM Việt Nam là 
bước đầu tiên cần phải thực hiện. Bài viết 
đã khảo sát và đánh giá những kết quả đạt 
được, đặc biệt là những hạn chế của việc 
áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM Việt 
Nam hiện nay. Việc xác định mức độ ảnh 
hưởng của các yếu tố được xem là nguyên 
nhân của những hạn chế đó sẽ là gợi mở 
cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm khuyến 
nghị các giải pháp toàn diện cho việc áp 
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc 
tế tại các NHTM Việt Nam trong thời gian 
tới ■
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2008), 26 CMKT Việt Nam (2001-2006), Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
2. Báo cáo tài chính năm 2018 đã kiểm toán của các NHTM Việt Nam, Website của các NHTM Việt Nam. 
3. Barlev, B., Haddad and J.R. (2007), Harmonization, comparability, and fair value accounting, Journal of Accounting, 
Auditing and Finance, Vol. 22, No.3.
4. Barth, M. E., & Clinch and G. (1998), Revalued Financial, Tangible, and Intangible Assets: Associations with Share 
Prices and Non-Market-Based Value Estimates, Journal of Accounting Research, Vol. 36.
5. Cairn, D., Dianne, M., Ross, T., Ann, T. (2011), IFRS fair value measurement and accounting policy choice in the 
United Kingdom and Australia, The British Accounting Review, No. 43.
6. Chea, A. C (2011), Fair Value Accounting: Its Impacts on Financial Reporting and How It Can Be Enhanced to 
Provide More Clarity and Reliability of Information for Users of Financial Statements, International Journal of Business 
and Social Science, Vol. 2 No. 20
7. Christensen & Nikolaev, V. (2009), Who uses fair value accounting for non-financial assets after IFRS adoption?, 
University of Chicago Booth School of Business, Working paper, No. 09-12.
8. Danbolt, J., & Rees, W. (2008), An Experiment in Fair Value Accounting: UK Investment Vehicles, European 
Accounting Review, Vol 17 (2).
9. Dietrich, D., Harris, M., & Muller, K. A. (2001), The reliability of investment property fair estimates, Journal of 
Accounting and Economics. Vol 30.
10. Dương Thị Thảo (2013), Một số giải pháp hoàn thiện các qui định về sử dụng giá trị hợp lý trong chế độ kế toán DN 
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
11. Hà Thị Ngọc Hà (2016), Cập nhật chuẩn mực kế toán Việt Nam phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế với việc góp 
phần tăng cường chất lượng báo cáo tài chính được kiểm toán, truy cập ngày 15/7/2016, từ  
12. IFRS 13- Fair Value Measurement; IFRS 9 Financial Instruments ; IAS 32 Financial Instruments: Presentation; IAS 
39: Financial Instruments: Recognition and Measurement, https://www.iasplus.com/en/standards
13. Laux, C., Leuz, C. (2009), The crisis of fair-value accounting: Making sense of the recent debate, Accounting, 
Organizations and Society, No. 34.
14. Laux, C., Leuz, C. (2010), Did Fair – Value Accounting Contribute to the Financial Crisis?, Forthcoming in the 
Journal of Economic Perspectives, Chicago University, Chicago.
15. Phạm Đức Hiếu (2010), Kế toán theo giá trị hợp lý và khủng hoảng tài chính - các tranh luận và liên hệ thực tế ở Việt 
Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số tháng 9/2010.
16. Songlan, P., Cameron, G., Kathryn, B. (2014), Fair Value Accounting Reforms in China: Towards an Accounting 
Movement Theory, truy cập ngày 02/6/2014, từ 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_ap_dung_ke_toan_gia_tri_hop_ly_tai_cac_ngan_hang.pdf