Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay
Mục tiêu: Mô tả thực trạng thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh của người dân thông qua hoạt động công tác xã hội (CTXH). Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang mô tả. Nghiên cứu được thực hiện tại 7 tỉnh Hà Nội, Quảng Ninh, Hoà Bình, Đà Nẵng, Bến Tre, Đắk Lắk và thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 6/2018 đến tháng 5 năm 2019. Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy về quyền được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe hoạt động công tác xã hội nổi bật nhất là tuyên truyền chính sách và biện hộ chính sách là hoạt động được sử dụng với tỷ lệ thấp nhất. Về quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh, hoạt động được chú trọng nhiều nhất cũng là tuyên truyền chính sách và thấp nhất là hoạt động hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách. Về quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh, hoạt động chủ đạo là tuyên truyền và tư vấn chính sách, hoạt động ít được thực hiện nhất là kết nối nguồn lực hỗ trợ. Về quyền được cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) miễn phí, hoạt động được thực hiện với tỷ lệ cao nhất vẫn là hoạt động tuyên truyền chính sách và thấp nhất là kết nối nguồn lực hỗ trợ. Kết luận: Từ các can thiệp và sự trợ giúp của CTXH, người dân có thể tiếp cận và thực hiện quyền khám chữa bệnh của mình. Nhà nước cần có rà soát và bổ sung các văn bản luật, chính sách, chương trình, dịch vụ về y tế để mọi người dân được tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của CTXH trong việc thúc đẩy thực hiện quyền an sinh xã hội (ASXH) của người dân trong cộng đồng nói chung và trong các cơ sở y tế nói riêng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay
ng quyền quan trọng và là biện pháp cứu cánh đối với người dân, nhất là đối với các nhóm người khuyết tật, người cao tuổi, người nghèo/cận nghèo, vv... trong các trường hợp đối mặt với rủi ro ốm đau, bệnh tật cho người dân; đồng thời cũng tạo tâm lý yên tâm hơn cho người dân trong quá trình điều trị bệnh tật. Chính vì thế, các nhân viên CTXH chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp và không Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự 112 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Bảng 2. Quyền được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe Hoạt động CTXH Hà Nội N=300 Quảng Ninh N=300 Hòa Bình N=300 Đà Nẵng N=300 TP HCM N=300 Bến Tre N=300 Đắk Lắk N=300 Tổng N=2100 Tuyên truyền chính sách 3,3 14,7 28,7 14,0 9,7 28,0 17,3 16,5 Tư vấn chính sách 11,0 17,3 11,7 8,7 5,3 7,3 10,0 10,2 Biện hộ chính sách 5,0 5,0 2,3 1,3 3,0 1,7 6,0 3,5 Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách 4,3 3,3 4,7 4,3 1,0 3,7 6,7 4,0 Kết nối nguồn lực hỗ trợ 5,3 3,7 5,7 2,3 0,7 1,0 7,3 3,7 Khác 0,0 3,3 0,7 1,0 0,0 0,0 1,0 0,9 Trong số 2100 người dân được khảo sát, kết quả tại bảng 2 cho thấy phần lớn hoạt động tuyên truyền chính sách được thực hiện khá tốt (16,5%) tiếp đến là hoạt động tư vấn chính sách cũng có tỷ lệ khá cao (10,2%), thấp nhất ở kết quả chung của 07 tỉnh là hoạt động biện hộ chính sách và hoạt động khác (3,5 % và 0,9%). Với hoạt động tuyên truyền chính sách địa phương có tỷ lệ cao nhất là Hòa Bình (28,7%) và thấp nhất là TP. Hồ Chí Minh (9,7%), hoạt động kết nối nguồn lực cũng có tỷ lệ thấp (3,7%), ở hoạt động này TP. Hồ Chí Minh là thành phố có tỷ lệ thấp nhất (0,7%) và cao nhất là Đắk Lắk 7,3%. Bảng 3. Quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh Hoạt động CTXH Hà Nội N=300 Quảng Ninh N=300 Hòa Bình N=300 Đà Nẵng N=300 TP HCM N=300 Bến Tre N=300 Đắk Lắk N=300 Tổng N=2100 Tuyên truyền chính sách 22,3 24,3 64,7 27,7 6,3 37,7 33,7 31,0 Tư vấn chính sách 29,0 18,7 22,3 17,0 3,7 7,0 21,3 17,0 Biện hộ chính sách 14,0 9,7 4,0 3,3 1,0 1,3 7,7 5,9 Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách 4,7 2,7 7,0 2,0 2,0 1,3 8,7 4,0 Kết nối nguồn lực hỗ trợ 4,0 3,7 9,7 4,7 0,7 0,7 7,3 4,4 Khác 1,0 7,0 1,0 1,7 0,0 0,0 1,0 1,7 chuyên tích cực thực hiện, trong đó tập trung nhiều vào công tác hỗ trợ cấp thẻ BHYT miễn phí và hỗ trợ người dân tiêm chủng ngừa bệnh. Các hoạt động hỗ trợ người dân thực hiện quyền ASXH về khám chữa bệnh thông qua hoạt động CTXH được thể hiện rõ nét qua các bảng dưới đây. Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự 113 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Bảng 3 về quyền được tiêm chủng ngừa bệnh cho thấy hoạt động hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách và kết nối nguồn lực hỗ trợ chiếm tỷ lệ thấp (4,0% và 4,4%). Hoạt động tuyên truyền chính sách vẫn là hoạt động chiếm tỷ lệ cao nhất (31%). Bảng 4.Quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh Hoạt động CTXH Hà Nội N=300 Quảng Ninh N=300 Hòa Bình N=300 Đà Nẵng N=300 TP HCM N=300 Bến Tre N=300 Đắk Lắk N=300 Tổng N=2100 Tuyên truyền chính sách 10,3 21,0 58,3 29,3 9,7 28,7 22,7 25,7 Tư vấn chính sách 29,7 18,0 23,0 11,0 6,3 8,0 13,7 15,7 Biện hộ chính sách 17,0 9,3 5,7 2,3 2,3 1,0 5,3 6,1 Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách 9,0 2,0 10,7 4,0 2,3 1,7 11,0 5,8 Kết nối nguồn lực hỗ trợ 11,7 3,7 10,0 4,7 0,3 1,7 7,7 5,7 Khác 1,3 5,7 1,7 2,3 0,0 0,0 0,7 1,7 Quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh bảng 4 cho thấy với hoạt động tuyên truyền chính sách tỉnh có tỷ lệ cao nhất là Hòa Bình (58,3%) và thấp nhất là TP. Hồ Chí Minh. Hoạt động kết nối nguồn lực hỗ trợ, chuẩn bị hồ sơ chính sách có tỷ lệ tương đương (5,7% và 5,8%). Bảng 5. Quyền được cấp thẻ BHYT miễn phí Hoạt động CTXH Hà Nội N=300 Quảng Ninh N=300 Hòa Bình N=300 Đà Nẵng N=300 TP HCM N=300 Bến Tre N=300 Đắk Lắk N=300 Tổng N=2100 Tuyên truyền chính sách 8,3 20,3 70,0 26,0 12,0 36,7 30,7 29,1 Tư vấn chính sách 25,3 16,7 26,3 16,0 5,7 11,0 15,3 16,6 Biện hộ chính sách 15,3 8,3 7,0 2,0 1,7 1,7 7,3 6,2 Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách 2,7 9,7 17,7 7,3 3,0 7,0 12,7 8,6 Kết nối nguồn lực hỗ trợ 10,0 1,0 12,7 5,7 2,0 1,3 7,7 5,8 Khác 0,7 5,0 0,3 1,3 0,0 0,0 0,7 1,1 Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự 114 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Qua kết quả tại bảng 5 cho thấy tỷ lệ hoạt động tuyên truyền chính sách vẫn đạt tỷ lệ cao nhất trong số các hoạt động (29,1%), hoạt động biện hộ chính sách và kết nối nguồn lực có tỷ lệ thấp và ở mức tương đương (6,2% và 5,8%). BÀN LUẬN Kết quả khảo sát ở 4 bảng trên đã thể hiện có sự tương đồng trong cách thức thực hiện các nghiệp vụ CTXH hỗ trợ người dân tiếp cận cả 4 chính sách hỗ trợ thuộc quyền ASXH về khám chữa bệnh (gồm: Hỗ trợ chi phí điều trị khám chữa bệnh; Điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe; Tiêm chủng phòng ngừa bệnh; Cấp thẻ BHYT miễn phí). Trong đó, cả 3 nhóm nhân viên CTXH chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp và không chuyên đều ưu tiên thực hiện các nghiệp vụ tuyên truyền, tư vấn chính sách với tỷ lệ cao nhất trong cả 4 quyền khám chữa bệnh của người dân 16,5%, 31%, 25,7% và 29,1% vv.... Thực tế, hoạt động điều trị, khám chữa bệnh thì hỗ trợ quan trọng và cần thiết nhất đối với người dân là kết nối nguồn lực hỗ trợ; giúp họ biện hộ chính sách và chuẩn bị hồ sơ đề nghị hưởng các trợ giúp liên quan đến khám chữa bệnh. Tuy nhiên, những cách thức hỗ trợ này vẫn còn chưa được chú ý đầu tư nhiều trong số hoạt động CTXH. Tỷ lệ nhân viên cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thông qua CTXH chuyên nghiệp áp dụng các phương pháp hỗ trợ thông qua 3 nghiệp vụ CTXH (kết nối nguồn lực hỗ trợ; biện hộ chính sách và chuẩn bị hồ sơ chính sách) này và tỷ lệ người dân nhận được hỗ trợ theo 3 cách thức hỗ trợ này đều ở mức rất thấp (dưới 10%) ở cả 4 chính sách hỗ trợ thuộc quyền này. Về quyền được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe Được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe là quyền của mỗi người dân, điều này đã phần nào được đề cập đến trong các văn bản Luật của nước ta như Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật số 21 LCT/HĐND 8, ban hành 30/6/1989 (Điều 1 và 2, chương I) (1), Luật khám bệnh, chữa bệnh (Số 40/2009/QH 12, dự thảo số 02/2019 sửa đổi Luật số 40) (3). Trong đó các đối tượng người nghèo, cận nghèo, người khuyết tật, người mắc bệnh hiểm nghèo và người có công với cách mạng vv là nhóm người dân được ưu tiên và quan tâm trong Luật và chính sách của nước ta. Quyền được hỗ trợ, điều dưỡng đã được thực hiện với tỷ lệ cao nhất thông qua hoạt động tuyên truyền chính sách và tư vấn chính sách (16,5% và 10,2%), hoạt động biện hộ chính sách có tỷ lệ thấp nhất (3,5%). Sở dĩ hai hoạt động tuyên truyền và tư vấn chính sách được thực hiện khá tốt do đây cũng là các hoạt động thường xuyên trong công việc của NVCTXH, hai hoạt động này cũng khá dễ khi triển khai trong thực tế, còn hoạt động biện hộ chính sách ít được chú ý thực hiện hơn với NVCTXH bởi thực hiện nó đòi hỏi NVCTXH phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức, cần có sự quyết tâm của người dân và sự tham gia của nhiều bên liên quan trong quá trình biện hộ. Về quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh Quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh cũng là một trong số các quyền về chăm sóc sức khỏe của không chỉ nhóm người yếu thế mà của toàn dân, hoạt động tuyền truyền chính sách vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các hoạt động CTXH hỗ trợ người dân thực hiện quyền này (31,7%), hoạt động chuẩn bị hồ sơ chính sách và kết nối nguồn lực hỗ trợ có tỷ lệ thấp và ở mức tương đương 4,0% và 3,7%. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Vân và cộng sự (2016) (4) cho thấy bà con đặc biệt là phụ nữ mang thai ở nông thôn và miền núi (phụ nữ thuộc hộ nghèo, cận nghèo, khuyết tật) thường không đi tiêm chủng ngừa bệnh do ảnh hưởng phong tục tập quán, sức khỏe và thiếu thông tin. Do vậy rất cần có hoạt Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự 115 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) động truyền thông nâng cao nhận thức của người dân trong tiêm chủng ngừa bệnh. Về quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh “Mọi người khi ốm đau, bệnh tật, bị tai nạn được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở nơi công dân cư trú, lao động, học tập” điều này đã được quy định rõ trong Điều 23, chương IV của Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân. (Luật số 21 LCT/HĐND 8, ban hành 30/6/1989) (1). Tại Điều 3, chương I của Luật Khám bệnh, chữa bệnh (3) nêu rõ ưu tiên khám chữa bệnh với người khuyết tật nặng, người có công với cách mạngvà tại điều 4, mục 1 của chương này có nêu nhà nước dành ngân sách (chi phí điều trị) cho việc chăm sóc sức khỏe đối với người có công với cách mạng, người nghèo vvđây đều là nhóm đối tượng tham gia nghiên cứu. Thực tế nhóm người yếu thế gặp nhiều khó khăn, rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế và được hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh, do đó hoạt động tuyên truyền, tư vấn chính sách cho những người yếu thế đã được các nhân viên CTXH chú trọng thực hiện (25,7% và 15,7%). Với các hoạt động biện hộ chính sách, hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách và kết nối nguồn lực hỗ trợ cũng được chú trọng nhưng tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 6,1%, 5,8% và 5,7%. Các hoạt động này có tý lệ thấp hơn một phần do không nhiều đối tượng có mong muốn và nhu cầu thực hiện biện hộ. Việc kết nối nguồn lực hỗ trợ cũng là hoạt động khó thực hiện hơn so với hoạt động tuyên truyền và tư vấn chính sách bởi tính chất công việc và quỹ thời gian của nhân viên công tác xã hội cũng như sự sẵn sàng tham gia của các cơ quan liên quan trong thực hiện quyền này cho người dân. Về quyền được cấp thẻ BHYT miễn phí Người dân tham gia khảo sát (thuộc những nhóm yếu thế như người nghèo, người khuyết tật, người có công với cách mạng...) được nhà nước cấp thẻ BHYT miền phí hoặc hỗ trợ mua thẻ BHYT với những hộ gia đình cận nghèo, điều này đã được quy định rõ tại Khoản 3 và 4, Điều 12 Luật 2008, sửa đổi bổ sung tại Luật bảo hiểm y tế 2014 (2). Để hỗ trợ người dân thực hiện quyền này, nhân viên CTXH thông qua 4 hoạt động chính trong đó hoạt động tuyên truyền, tư vấn chính sách được đẩy mạnh với tỷ lệ cao (29,1% và 16,6%). Từ những hoạt động này quyền được cấp thẻ BHYT miễn phí của người dân đã được thực hiện khá tốt (44,6%). Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định trong tổ chức thực hiện cung ứng các dịch vụ hỗ trợ khi vẫn còn có 8,1% người dân chưa hài lòng và 5,2% người dân không hoàn toàn hài lòng với những cách thức can thiệp hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ thuộc quyền ASXH về khám chữa bệnh bởi lẽ chất lượng của dịch vụ y tế được cung cấp còn khá thấp. ). Vấn đề này đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu của Mai Linh, Nguyễn Thị Kim Hoa (2016) (5,6,7) đã chỉ ra các dịch vụ được cung cấp cho các bệnh nhân khi khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT hầu như chưa đáp ứng được với nhu cầu điều trị bệnh của bệnh nhân. Do đó rất cần có những đánh giá và cải thiện chất lượng dịch vụ được cung cấp cho người dân trong thời gian tới. KẾT LUẬN Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe luôn là nhu cầu của đại đa số người dân, trong đó có nhu cầu được hỗ trợ khám, chữa bệnh. Kết quả khảo sát đã chỉ ra thực trạng thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh của người dân thông qua hoạt động công tác xã hội như tuyên truyền và tư vấn chính sách, biện hộ chính sách, kết nối nguồn lực hỗ trợ vv... người dân được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh, được hỗ trợ chi phí chữa bệnh và được hỗ trợ cấp thẻ BHYT Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự 116 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) miễn phí. Trong đó có thể thấy quyền được hỗ trợ cấp thẻ BHYT miễn phí được thực hiện khá tốt so với các quyền còn lại. Trong số các hoạt động can thiệp, hỗ trợ của nhân viên CTXH thì hoạt động tuyên truyền chính sách được thực hiện tốt nhất. Các quyền như biện hộ, kết nối nguồn lực hỗ trợ chưa được đánh giá cao. Tuy nhiên, từ các can thiệp và sự trợ giúp này người dân có thể tiếp cận và thực hiện quyền khám chữa bệnh của mình. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của CTXH trong việc thúc đẩy thực hiện quyền an sinh xã hội của người dân trong cộng đồng nói chung và trong các cơ sở y tế nói riêng. KHUYẾN NGHỊ: Với Đảng và Nhà nước: cần có rà soát và bổ sung các văn bản luật, chính sách, chương trình, dịch vụ về y tế để mọi người dân được tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ đặc biệt là nhóm yếu thế. Nhà nước cần có quy định cụ thể trong việc đánh giá chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân tại các cơ sở y tế, có cơ chế phối hợp và thúc đẩy vai trò của CTXH trong bệnh viện. Tăng cường truyền thông về chính sách an sinh trong khám chữa bệnh để nâng cao nhận thức của người dân. Các cơ sở cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân: chú trọng và đảm bảo chất lượng các dịch vụ y tế cơ sở cung cấp, có cơ chế phối hợp với các ban ngành có liên quan trong việc cung cấp dịch vụ. Với các nhân viên công tác xã hội: Nhân viên CTXH trong bệnh viện cần được trao quyền giám sát việc thực hiện các chính sách. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân. (Luật số 21 LCT/HĐND 8, ban hành 30/6/1989) 2. Luật Bảo hiểm y tế 2008, sửa đổi bổ sung Luật bảo hiểm y tế 2014 3. Luật khám bệnh, chữa bệnh (Số 40/2009/QH 12, dự thảo số 02/2019 sửa đổi Luật số 40) 4. Nguyễn Thị Vân và cộng sự, Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêm chủng MR tại Tu Mơ Rông (2016). 5. Mai Linh, Nguyễn Thị Kim Hoa, “Thực trạng sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của người dân”, Tạp chí Xã hội học số 2 (130). 2015. ISSN 0866 – 7659. Trang 75-85. (2015) 6. Mai Linh, Nguyễn Thị Kim Hoa. “Một số trở ngại trong thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”, Tạp chí Xã hội học số 3 (135), 2016, ISSN 0866 – 7659. (2016) 7. Mai Linh, “Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế và chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn ISSN 2354-1172, tập 2, số 1b, 2016. Trang 78-87/ “La participation. (2016) 8. Quyết định số 1125/QĐ-TTg ngày 31/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 9. Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016 – 2020 10. Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2016 - 2020. Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự
File đính kèm:
- thuc_hien_quyen_an_sinh_xa_hoi_ve_kham_chua_benh_cho_nguoi_d.pdf