Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay

Mục tiêu: Mô tả thực trạng thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh của người dân thông qua hoạt động công tác xã hội (CTXH). Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang mô tả. Nghiên cứu được thực hiện tại 7 tỉnh Hà Nội, Quảng Ninh, Hoà Bình, Đà Nẵng, Bến Tre, Đắk Lắk và thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 6/2018 đến tháng 5 năm 2019. Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy về quyền được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe hoạt động công tác xã hội nổi bật nhất là tuyên truyền chính sách và biện hộ chính sách là hoạt động được sử dụng với tỷ lệ thấp nhất. Về quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh, hoạt động được chú trọng nhiều nhất cũng là tuyên truyền chính sách và thấp nhất là hoạt động hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ chính sách. Về quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh, hoạt động chủ đạo là tuyên truyền và tư vấn chính sách, hoạt động ít được thực hiện nhất là kết nối nguồn lực hỗ trợ. Về quyền được cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) miễn phí, hoạt động được thực hiện với tỷ lệ cao nhất vẫn là hoạt động tuyên truyền chính sách và thấp nhất là kết nối nguồn lực hỗ trợ. Kết luận: Từ các can thiệp và sự trợ giúp của CTXH, người dân có thể tiếp cận và thực hiện quyền khám chữa bệnh của mình. Nhà nước cần có rà soát và bổ sung các văn bản luật, chính sách, chương trình, dịch vụ về y tế để mọi người dân được tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của CTXH trong việc thúc đẩy thực hiện quyền an sinh xã hội (ASXH) của người dân trong cộng đồng nói chung và trong các cơ sở y tế nói riêng

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 1

Trang 1

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 2

Trang 2

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 3

Trang 3

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 4

Trang 4

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 5

Trang 5

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 6

Trang 6

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 7

Trang 7

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 4820
Bạn đang xem tài liệu "Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay

Thực hiện quyền an sinh xã hội về khám chữa bệnh cho người dân thông qua hoạt động công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay
ng quyền quan trọng và là biện pháp cứu 
cánh đối với người dân, nhất là đối với các nhóm 
người khuyết tật, người cao tuổi, người nghèo/cận 
nghèo, vv... trong các trường hợp đối mặt với rủi ro 
ốm đau, bệnh tật cho người dân; đồng thời cũng tạo 
tâm lý yên tâm hơn cho người dân trong quá trình 
điều trị bệnh tật. Chính vì thế, các nhân viên CTXH 
chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp và không 
Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự
112
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020)
Bảng 2. Quyền được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe
 Hoạt động CTXH
Hà 
Nội 
N=300
Quảng 
Ninh 
N=300
Hòa 
Bình 
N=300
Đà 
Nẵng 
N=300
TP 
HCM
N=300
Bến 
Tre 
N=300
Đắk 
Lắk 
N=300
Tổng 
N=2100
Tuyên truyền chính 
sách
3,3 14,7 28,7 14,0 9,7 28,0 17,3 16,5
Tư vấn chính sách 11,0 17,3 11,7 8,7 5,3 7,3 10,0 10,2
Biện hộ chính sách 5,0 5,0 2,3 1,3 3,0 1,7 6,0 3,5
Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ 
chính sách
4,3 3,3 4,7 4,3 1,0 3,7 6,7 4,0
Kết nối nguồn lực hỗ 
trợ
5,3 3,7 5,7 2,3 0,7 1,0 7,3 3,7
Khác 0,0 3,3 0,7 1,0 0,0 0,0 1,0 0,9
Trong số 2100 người dân được khảo sát, kết 
quả tại bảng 2 cho thấy phần lớn hoạt động 
tuyên truyền chính sách được thực hiện khá 
tốt (16,5%) tiếp đến là hoạt động tư vấn chính 
sách cũng có tỷ lệ khá cao (10,2%), thấp nhất ở 
kết quả chung của 07 tỉnh là hoạt động biện hộ 
chính sách và hoạt động khác (3,5 % và 0,9%). 
Với hoạt động tuyên truyền chính sách địa 
phương có tỷ lệ cao nhất là Hòa Bình (28,7%) 
và thấp nhất là TP. Hồ Chí Minh (9,7%), hoạt 
động kết nối nguồn lực cũng có tỷ lệ thấp 
(3,7%), ở hoạt động này TP. Hồ Chí Minh là 
thành phố có tỷ lệ thấp nhất (0,7%) và cao nhất 
là Đắk Lắk 7,3%.
Bảng 3. Quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh
 Hoạt động CTXH
Hà Nội 
N=300
Quảng 
Ninh 
N=300
Hòa 
Bình 
N=300
Đà 
Nẵng 
N=300
TP 
HCM
N=300
Bến 
Tre 
N=300
Đắk 
Lắk 
N=300
Tổng 
N=2100
Tuyên truyền chính 
sách
22,3 24,3 64,7 27,7 6,3 37,7 33,7 31,0
Tư vấn chính sách 29,0 18,7 22,3 17,0 3,7 7,0 21,3 17,0
Biện hộ chính sách 14,0 9,7 4,0 3,3 1,0 1,3 7,7 5,9
Hỗ trợ chuẩn bị hồ 
sơ chính sách
4,7 2,7 7,0 2,0 2,0 1,3 8,7 4,0
Kết nối nguồn lực 
hỗ trợ
4,0 3,7 9,7 4,7 0,7 0,7 7,3 4,4
Khác 1,0 7,0 1,0 1,7 0,0 0,0 1,0 1,7
chuyên tích cực thực hiện, trong đó tập trung nhiều 
vào công tác hỗ trợ cấp thẻ BHYT miễn phí và hỗ 
trợ người dân tiêm chủng ngừa bệnh.
Các hoạt động hỗ trợ người dân thực hiện quyền 
ASXH về khám chữa bệnh thông qua hoạt động 
CTXH được thể hiện rõ nét qua các bảng dưới đây.
Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự
113
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020)
Bảng 3 về quyền được tiêm chủng ngừa bệnh 
cho thấy hoạt động hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ 
chính sách và kết nối nguồn lực hỗ trợ chiếm 
tỷ lệ thấp (4,0% và 4,4%). Hoạt động tuyên 
truyền chính sách vẫn là hoạt động chiếm tỷ 
lệ cao nhất (31%).
Bảng 4.Quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh
 Hoạt động CTXH
Hà Nội 
N=300
Quảng 
Ninh 
N=300
Hòa 
Bình 
N=300
Đà 
Nẵng 
N=300
TP 
HCM
N=300
Bến 
Tre 
N=300
Đắk 
Lắk 
N=300
Tổng 
N=2100
Tuyên truyền chính 
sách
10,3 21,0 58,3 29,3 9,7 28,7 22,7 25,7
Tư vấn chính sách 29,7 18,0 23,0 11,0 6,3 8,0 13,7 15,7
Biện hộ chính sách 17,0 9,3 5,7 2,3 2,3 1,0 5,3 6,1
Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ 
chính sách
9,0 2,0 10,7 4,0 2,3 1,7 11,0 5,8
Kết nối nguồn lực hỗ 
trợ
11,7 3,7 10,0 4,7 0,3 1,7 7,7 5,7
Khác 1,3 5,7 1,7 2,3 0,0 0,0 0,7 1,7
Quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, khám 
chữa bệnh bảng 4 cho thấy với hoạt động 
tuyên truyền chính sách tỉnh có tỷ lệ cao nhất 
là Hòa Bình (58,3%) và thấp nhất là TP. Hồ 
Chí Minh. Hoạt động kết nối nguồn lực hỗ 
trợ, chuẩn bị hồ sơ chính sách có tỷ lệ tương 
đương (5,7% và 5,8%).
Bảng 5. Quyền được cấp thẻ BHYT miễn phí
 Hoạt động CTXH
Hà Nội 
N=300
Quảng 
Ninh 
N=300
Hòa 
Bình 
N=300
Đà 
Nẵng 
N=300
TP 
HCM
N=300
Bến 
Tre 
N=300
Đắk 
Lắk 
N=300
Tổng 
N=2100
Tuyên truyền chính 
sách
8,3 20,3 70,0 26,0 12,0 36,7 30,7 29,1
Tư vấn chính sách 25,3 16,7 26,3 16,0 5,7 11,0 15,3 16,6
Biện hộ chính sách 15,3 8,3 7,0 2,0 1,7 1,7 7,3 6,2
Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ 
chính sách
2,7 9,7 17,7 7,3 3,0 7,0 12,7 8,6
Kết nối nguồn lực hỗ 
trợ
10,0 1,0 12,7 5,7 2,0 1,3 7,7 5,8
Khác 0,7 5,0 0,3 1,3 0,0 0,0 0,7 1,1
Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự
114
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020)
Qua kết quả tại bảng 5 cho thấy tỷ lệ hoạt động 
tuyên truyền chính sách vẫn đạt tỷ lệ cao nhất 
trong số các hoạt động (29,1%), hoạt động 
biện hộ chính sách và kết nối nguồn lực có tỷ 
lệ thấp và ở mức tương đương (6,2% và 5,8%).
BÀN LUẬN
Kết quả khảo sát ở 4 bảng trên đã thể hiện có 
sự tương đồng trong cách thức thực hiện các 
nghiệp vụ CTXH hỗ trợ người dân tiếp cận cả 4 
chính sách hỗ trợ thuộc quyền ASXH về khám 
chữa bệnh (gồm: Hỗ trợ chi phí điều trị khám 
chữa bệnh; Điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe; 
Tiêm chủng phòng ngừa bệnh; Cấp thẻ BHYT 
miễn phí). Trong đó, cả 3 nhóm nhân viên 
CTXH chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp và 
không chuyên đều ưu tiên thực hiện các nghiệp 
vụ tuyên truyền, tư vấn chính sách với tỷ lệ 
cao nhất trong cả 4 quyền khám chữa bệnh của 
người dân 16,5%, 31%, 25,7% và 29,1% vv....
Thực tế, hoạt động điều trị, khám chữa bệnh thì 
hỗ trợ quan trọng và cần thiết nhất đối với người 
dân là kết nối nguồn lực hỗ trợ; giúp họ biện 
hộ chính sách và chuẩn bị hồ sơ đề nghị hưởng 
các trợ giúp liên quan đến khám chữa bệnh. Tuy 
nhiên, những cách thức hỗ trợ này vẫn còn chưa 
được chú ý đầu tư nhiều trong số hoạt động 
CTXH. Tỷ lệ nhân viên cung cấp các dịch vụ 
hỗ trợ thông qua CTXH chuyên nghiệp áp dụng 
các phương pháp hỗ trợ thông qua 3 nghiệp vụ 
CTXH (kết nối nguồn lực hỗ trợ; biện hộ chính 
sách và chuẩn bị hồ sơ chính sách) này và tỷ lệ 
người dân nhận được hỗ trợ theo 3 cách thức hỗ 
trợ này đều ở mức rất thấp (dưới 10%) ở cả 4 
chính sách hỗ trợ thuộc quyền này.
Về quyền được hỗ trợ điều dưỡng, chăm 
sóc sức khỏe
Được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe 
là quyền của mỗi người dân, điều này đã phần 
nào được đề cập đến trong các văn bản Luật 
của nước ta như Luật bảo vệ sức khỏe nhân 
dân, Luật số 21 LCT/HĐND 8, ban hành 
30/6/1989 (Điều 1 và 2, chương I) (1), Luật 
khám bệnh, chữa bệnh (Số 40/2009/QH 12, 
dự thảo số 02/2019 sửa đổi Luật số 40) (3). 
Trong đó các đối tượng người nghèo, cận 
nghèo, người khuyết tật, người mắc bệnh hiểm 
nghèo và người có công với cách mạng vv
là nhóm người dân được ưu tiên và quan tâm 
trong Luật và chính sách của nước ta. Quyền 
được hỗ trợ, điều dưỡng đã được thực hiện 
với tỷ lệ cao nhất thông qua hoạt động tuyên 
truyền chính sách và tư vấn chính sách (16,5% 
và 10,2%), hoạt động biện hộ chính sách có tỷ 
lệ thấp nhất (3,5%). Sở dĩ hai hoạt động tuyên 
truyền và tư vấn chính sách được thực hiện khá 
tốt do đây cũng là các hoạt động thường xuyên 
trong công việc của NVCTXH, hai hoạt động 
này cũng khá dễ khi triển khai trong thực tế, 
còn hoạt động biện hộ chính sách ít được chú 
ý thực hiện hơn với NVCTXH bởi thực hiện 
nó đòi hỏi NVCTXH phải đầu tư khá nhiều 
thời gian và công sức, cần có sự quyết tâm của 
người dân và sự tham gia của nhiều bên liên 
quan trong quá trình biện hộ.
Về quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh
Quyền được hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh 
cũng là một trong số các quyền về chăm sóc 
sức khỏe của không chỉ nhóm người yếu thế 
mà của toàn dân, hoạt động tuyền truyền 
chính sách vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong số 
các hoạt động CTXH hỗ trợ người dân thực 
hiện quyền này (31,7%), hoạt động chuẩn bị 
hồ sơ chính sách và kết nối nguồn lực hỗ trợ 
có tỷ lệ thấp và ở mức tương đương 4,0% và 
3,7%. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Vân và 
cộng sự (2016) (4) cho thấy bà con đặc biệt 
là phụ nữ mang thai ở nông thôn và miền núi 
(phụ nữ thuộc hộ nghèo, cận nghèo, khuyết 
tật) thường không đi tiêm chủng ngừa bệnh 
do ảnh hưởng phong tục tập quán, sức khỏe 
và thiếu thông tin. Do vậy rất cần có hoạt 
Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự
115
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020)
động truyền thông nâng cao nhận thức của 
người dân trong tiêm chủng ngừa bệnh. 
Về quyền được hỗ trợ chi phí điều trị, 
khám chữa bệnh
“Mọi người khi ốm đau, bệnh tật, bị tai nạn 
được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở 
khám bệnh, chữa bệnh ở nơi công dân cư trú, 
lao động, học tập” điều này đã được quy định 
rõ trong Điều 23, chương IV của Luật Bảo vệ 
sức khỏe nhân dân. (Luật số 21 LCT/HĐND 8, 
ban hành 30/6/1989) (1). Tại Điều 3, chương 
I của Luật Khám bệnh, chữa bệnh (3) nêu rõ 
ưu tiên khám chữa bệnh với người khuyết 
tật nặng, người có công với cách mạngvà 
tại điều 4, mục 1 của chương này có nêu nhà 
nước dành ngân sách (chi phí điều trị) cho việc 
chăm sóc sức khỏe đối với người có công với 
cách mạng, người nghèo vvđây đều là nhóm 
đối tượng tham gia nghiên cứu. Thực tế nhóm 
người yếu thế gặp nhiều khó khăn, rào cản 
trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế và được 
hỗ trợ chi phí điều trị, khám chữa bệnh, do đó 
hoạt động tuyên truyền, tư vấn chính sách cho 
những người yếu thế đã được các nhân viên 
CTXH chú trọng thực hiện (25,7% và 15,7%). 
Với các hoạt động biện hộ chính sách, hỗ trợ 
chuẩn bị hồ sơ chính sách và kết nối nguồn 
lực hỗ trợ cũng được chú trọng nhưng tỷ lệ 
thấp hơn, lần lượt là 6,1%, 5,8% và 5,7%. Các 
hoạt động này có tý lệ thấp hơn một phần do 
không nhiều đối tượng có mong muốn và nhu 
cầu thực hiện biện hộ. Việc kết nối nguồn lực 
hỗ trợ cũng là hoạt động khó thực hiện hơn 
so với hoạt động tuyên truyền và tư vấn chính 
sách bởi tính chất công việc và quỹ thời gian 
của nhân viên công tác xã hội cũng như sự sẵn 
sàng tham gia của các cơ quan liên quan trong 
thực hiện quyền này cho người dân. 
Về quyền được cấp thẻ BHYT miễn phí
Người dân tham gia khảo sát (thuộc những 
nhóm yếu thế như người nghèo, người khuyết 
tật, người có công với cách mạng...) được nhà 
nước cấp thẻ BHYT miền phí hoặc hỗ trợ mua 
thẻ BHYT với những hộ gia đình cận nghèo, 
điều này đã được quy định rõ tại Khoản 3 và 
4, Điều 12 Luật 2008, sửa đổi bổ sung tại Luật 
bảo hiểm y tế 2014 (2). Để hỗ trợ người dân 
thực hiện quyền này, nhân viên CTXH thông 
qua 4 hoạt động chính trong đó hoạt động tuyên 
truyền, tư vấn chính sách được đẩy mạnh với 
tỷ lệ cao (29,1% và 16,6%). Từ những hoạt 
động này quyền được cấp thẻ BHYT miễn 
phí của người dân đã được thực hiện khá tốt 
(44,6%). Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế 
nhất định trong tổ chức thực hiện cung ứng các 
dịch vụ hỗ trợ khi vẫn còn có 8,1% người dân 
chưa hài lòng và 5,2% người dân không hoàn 
toàn hài lòng với những cách thức can thiệp hỗ 
trợ tiếp cận các dịch vụ thuộc quyền ASXH về 
khám chữa bệnh bởi lẽ chất lượng của dịch vụ 
y tế được cung cấp còn khá thấp. ). Vấn đề này 
đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu 
của Mai Linh, Nguyễn Thị Kim Hoa (2016) 
(5,6,7) đã chỉ ra các dịch vụ được cung cấp 
cho các bệnh nhân khi khám chữa bệnh bằng 
thẻ BHYT hầu như chưa đáp ứng được với nhu 
cầu điều trị bệnh của bệnh nhân. Do đó rất cần 
có những đánh giá và cải thiện chất lượng dịch 
vụ được cung cấp cho người dân trong thời 
gian tới.
KẾT LUẬN
Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe luôn là nhu cầu 
của đại đa số người dân, trong đó có nhu cầu 
được hỗ trợ khám, chữa bệnh. Kết quả khảo sát 
đã chỉ ra thực trạng thực hiện quyền chăm sóc 
sức khỏe và khám chữa bệnh của người dân 
thông qua hoạt động công tác xã hội như tuyên 
truyền và tư vấn chính sách, biện hộ chính 
sách, kết nối nguồn lực hỗ trợ vv... người dân 
được hỗ trợ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe, 
hỗ trợ tiêm chủng ngừa bệnh, được hỗ trợ chi 
phí chữa bệnh và được hỗ trợ cấp thẻ BHYT 
Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự
116
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020)
miễn phí. Trong đó có thể thấy quyền được hỗ 
trợ cấp thẻ BHYT miễn phí được thực hiện khá 
tốt so với các quyền còn lại. Trong số các hoạt 
động can thiệp, hỗ trợ của nhân viên CTXH 
thì hoạt động tuyên truyền chính sách được 
thực hiện tốt nhất. Các quyền như biện hộ, kết 
nối nguồn lực hỗ trợ chưa được đánh giá cao. 
Tuy nhiên, từ các can thiệp và sự trợ giúp này 
người dân có thể tiếp cận và thực hiện quyền 
khám chữa bệnh của mình. Trong thời gian tới 
cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của CTXH 
trong việc thúc đẩy thực hiện quyền an sinh xã 
hội của người dân trong cộng đồng nói chung 
và trong các cơ sở y tế nói riêng. 
KHUYẾN NGHỊ:
Với Đảng và Nhà nước: cần có rà soát và bổ 
sung các văn bản luật, chính sách, chương 
trình, dịch vụ về y tế để mọi người dân được 
tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ đặc biệt là 
nhóm yếu thế. Nhà nước cần có quy định cụ 
thể trong việc đánh giá chất lượng dịch vụ 
khám chữa bệnh cho người dân tại các cơ sở 
y tế, có cơ chế phối hợp và thúc đẩy vai trò 
của CTXH trong bệnh viện.
Tăng cường truyền thông về chính sách an 
sinh trong khám chữa bệnh để nâng cao nhận 
thức của người dân. 
Các cơ sở cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh 
cho người dân: chú trọng và đảm bảo chất 
lượng các dịch vụ y tế cơ sở cung cấp, có cơ 
chế phối hợp với các ban ngành có liên quan 
trong việc cung cấp dịch vụ.
Với các nhân viên công tác xã hội: Nhân viên 
CTXH trong bệnh viện cần được trao quyền 
giám sát việc thực hiện các chính sách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân. (Luật số 21 
LCT/HĐND 8, ban hành 30/6/1989)
2. Luật Bảo hiểm y tế 2008, sửa đổi bổ sung Luật 
bảo hiểm y tế 2014
3. Luật khám bệnh, chữa bệnh (Số 40/2009/QH 
12, dự thảo số 02/2019 sửa đổi Luật số 40)
4. Nguyễn Thị Vân và cộng sự, Thực trạng và một 
số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêm chủng MR 
tại Tu Mơ Rông (2016).
5. Mai Linh, Nguyễn Thị Kim Hoa, “Thực trạng 
sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của người dân”, Tạp 
chí Xã hội học số 2 (130). 2015. ISSN 0866 – 
7659. Trang 75-85. (2015)
6. Mai Linh, Nguyễn Thị Kim Hoa. “Một số trở ngại 
trong thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn 
dân”, Tạp chí Xã hội học số 3 (135), 2016, ISSN 
0866 – 7659. (2016)
7. Mai Linh, “Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế 
và chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh bằng thẻ 
bảo hiểm y tế”, Tạp chí Khoa học Xã hội và 
Nhân văn ISSN 2354-1172, tập 2, số 1b, 2016. 
Trang 78-87/ “La participation. (2016)
8. Quyết định số 1125/QĐ-TTg ngày 31/7/2017 
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
9. Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 
2016 – 2020 
10. Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát 
triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2016 - 2020.
Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự

File đính kèm:

  • pdfthuc_hien_quyen_an_sinh_xa_hoi_ve_kham_chua_benh_cho_nguoi_d.pdf