Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm

Trẻ em là tương lai của đất nước và là nhân tố quan trọng góp phần vào sự

phát triển của một quốc gia. Do vậy, quan tâm, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách

nhiệm của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận trẻ em của nước ta đang phải

lao động sớm. Điều này gây hậu quả nghiệm trọng đối với bản thân các em, gia đình và

toàn xã hội. Bài viết đề cập vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc góp phần

giải quyết những vấn đề này, trên cơ sở đó, giúp cho các bạn sinh viên ngành công tác xã

hội ý thức rõ hơn về nghề và định hướng đúng đắn cho bản thân trong học tập và rèn

luyện.

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 1

Trang 1

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 2

Trang 2

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 3

Trang 3

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 4

Trang 4

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 5

Trang 5

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 6

Trang 6

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 7

Trang 7

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 8

Trang 8

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 1620
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm

Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lao động sớm
.2. Thực trạng lao động trẻ em ở Việt Nam 
Theo số liệu điều tra quốc gia về lao động trẻ em của Bộ Lao động - Thương binh và 
Xã hội năm 2012, công bố ngày 14/3/2014, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 1,75 triệu trẻ 
em từ 5 đến 15 tuổi là lao động trẻ em, trong đó một phần ba trẻ em có thời gian làm việc 
trên 7 giờ một ngày hoặc trên 42 giờ một tuần, số thời gian làm việc kéo dài làm ảnh 
hưởng đến việc học tập của các em. Số đông lao động trẻ em làm việc tại các bãi vàng, 
khai thác than, làm việc tại các cơ sở may, lao động trẻ em còn tham gia làm việc trong 
dịch vụ nhà hàng. Trong số đó có khoảng 30.000 trẻ buộc phải làm những công việc nặng 
nhọc, độc hại, trong điều kiện lao động ngoài trời, đi lại nhiều dễ bị tai nạn, môi trường 
làm việc có hóa chất gây hại, làm tổn thương đến sự phát triển thể chất. Bộ phận trẻ em 
sống ở nông thôn thường làm việc trong ngành nông nghiệp và phụ giúp gia đình không 
được trả lương [2]. 
Ở Việt Nam, độ tuổi trung bình trẻ em bắt đầu lao động là 13 - 14 tuổi. Trẻ em vạn đò 
phải học chèo thuyền từ 5 - 6 tuổi, 10 - 12 tuổi đã đi làm kiếm tiền Những số liệu gần 
đây cho thấy, trẻ em từ 6 - 17 tuổi tham gia vào những hoạt động kinh tế chiếm khoảng 
trên dưới 30%, khoảng 60% lao động ở các cơ sở ngoài quốc doanh sống trong điều kiện 
khó khăn (ăn, ngủ, sức khỏe, vệ sinh không đảm bảo) tiền công rẻ mạt, cường độ lao 
động cao; 71,2% trẻ em làm việc từ 9 - 12 giờ/ngày; 72% trẻ làm việc cả ngày chủ nhật; 
1% trẻ làm việc trong điều kiện sức khỏe yếu. Nhóm trẻ độ tuổi từ 15 - 17 tuổi có tỷ lệ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 93 
tham gia lao động tương đối cao (63,3% so với độ tuổi). Điều đáng lưu ý là có khoảng 15% 
trẻ em làm thuê, phải làm các nghề với điều kiện nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, 
sành sứ, vật liệu xây dựng Kết quả cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy, trong vòng 
5 năm lại đây, cả nước cả nước có khoảng trên dưới 40.000 trẻ em tham gia các hình thức 
lao động. Trẻ em nông thôn tham gia hoạt động kinh tế sớm hơn và nhiều hơn trẻ em thành 
thị, với khoảng 19% so với trên dưới 7%. Trẻ em ở những vùng quê nghèo, đặc biệt là khu 
vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long phải lao động nhiều hơn, 
các chỉ số này lần lượt ở những vùng kể trên là 25,9%; 19,8% và 19,7%. Việc trẻ em phải 
tham gia lao động sớm ảnh hưởng đến tình hình học tập cũng như cơ hội đến trường của 
các em. Theo thống kê có khoảng 55% trẻ em không đi học, số lượng còn lại có đến trường 
tuy nhiên không đều đặn và không đảm bảo được chất lượng học tâp [2]. 
Lao động trẻ em tham gia vào các quan hệ lao động thường không được ký kết hợp 
đồng lao động bằng văn bản. Người sử dụng lao động lợi dụng những điểm này để bóc lột 
sức lao động của trẻ em, đồng thời khi xảy ra tranh chấp cũng không có cơ sở pháp lý để 
xử lý người vi phạm và bảo vệ quyền của trẻ em. 
2.3. Nguyên nhân của tình trạng trẻ em lao động sớm 
Nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trẻ em lao động sớm là do hoàn cảnh kinh tế 
gia đình quá nghèo khó, ngoài ra còn một số trường hợp khác như các em muốn có tiền để 
tự tiêu dùng riêng, bị gia đình bắt đi làm nhưng rất ít. Trẻ em lao động sớm góp được 
khá nhiều cho gia đình thậm chí có những em là thu nhập chính, 42,2% trẻ có thu nhập trên 
20.000đ/tháng; gần 10% trẻ có thu nhập cao hơn mức này; 39% trẻ lao động sớm còn lại 
có thu nhập 6.000đ - 10.000đ/ ngày (theo số liệu thống kê năm 2007). 
Nguyên nhân thứ hai xuất phát nhận thức mơ hồ của bố mẹ các em về quyền của trẻ 
thơ: quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí lành mạnh, quyền được phát triển 
năng khiếu Các bậc cha mẹ này hoàn toàn không biết, không hiểu; với họ, đơn giản là 
gia đình còn nghèo nên việc cho con em nghỉ học, lao động là bình thường, hiển nhiên. Lời 
giải thích của họ thường là: “nếu như gia đình chúng tôi dư dả, dại gì không cho con cháu 
mình học hành đến nơi đến chốn để có tương lai tươi sáng hơn, tội gì bắt nó lao động vất 
vả”. Nhiều chuyên viên hoạt động trong lĩnh vực trẻ em cũng cho biết, trẻ em không biết 
được quyền lợi mà lẽ ra các em phải được hưởng theo pháp luật. Ngay cả bố mẹ cũng 
không quan tâm, hay nói đúng hơn là họ không hề biết nên đã vô tình vi phạm “Luật lao 
động” khi bắt con cái phải làm việc quá sớm. Thứ ba là nguyên nhân từ chính xã hội: 
Trong xã hội nhiều người còn chấp nhận sử dụng lao động trẻ em, chưa có một cái nhìn 
đúng đắn về quyền lợi của trẻ và những vi phạm pháp luật nếu sử dụng lao động trẻ em. 
Cuối cùng, những bất cập của pháp luật, chính sách, sự yếu kém trong hệ thống các cơ 
quan quản lý Nhà nước, ý muốn chủ quan của người sử dụng lao động và nhu cầu riêng 
của các em cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em lao động sớm ngày càng có xu 
hướng phát triển như hiện nay. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 94 
Trên đây là một số nguyên nhân khiến trẻ em phải lao động sớm. Thực trạng này xảy 
ra nhiều và đang trở thành nỗi lo lớn của xã hội. Trẻ em lao động sớm gây ra nhiều hậu quả 
không những đối với các em mà còn đối với cả gia đình và xã hội. 
2.4. Hậu quả của tình trạng trẻ em lao động sớm 
2.4.1. Đối với bản thân các em 
Các em phải bỏ học, thất học nên không có cơ hội phát triển, thu nhập thấp. Hơn nữa, 
còn có thể chịu nhiều hậu quả như tai nạn lao động, suy dinh dưỡng, bị khủng hoảng về 
tinh thần, mất niềm tin, dễ bị tha hoá về đạo đức lối sống hay sa vào các tệ nạn xã hội hoặc 
trộm cắp, gây ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân gia đình các em. Trong thực tế nhiều 
trường hợp các em ra thành phố kiếm sống, không có chút kỹ năng và hiểu biết gì nên đã 
dễ dàng bị lôi kéo gây ra những hậu quả đáng tiếc. 
2.4.2. Đối với gia đình 
 “Trẻ em lao động sớm” chịu nhiều những thiệt thòi và hậu quả nghiêm trọng. Khi 
trong gia đình có một em lao động sớm mắc phải một số vấn đề về sức khoẻ sẽ ảnh hưởng 
rất nhiều đến kinh tế gia đình, nhất là trong việc chữa trị sức khoẻ cả sức khỏe thể chất lẫn 
tâm lý. 
2.4.3. Đối với xã hội 
 “Trẻ em lao động sớm” gây tình trạng đói nghèo, kém phát triển, làm cho các giá trị 
đạo đức và tinh thần chung bị phai nhạt. Lực lượng lao động què quặt không đáp ứng được 
các yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Khi trẻ tham gia lao động sẽ làm cho lao động 
người lớn thất nghiệp gia tăng, bởi lẽ lao động trẻ em có thể làm những công việc của 
người lớn nhưng chỉ phải trả đồng lương thấp hơn. Điều này có hại cho các em, gia đình và 
toàn xã hội nhưng lại có lợi cho một số người sử dụng lao động. Nếu như tình trạng sử 
dụng lao động trẻ em diễn ra ở mức độ phổ biến, phạm vi rộng thì một số mặt hàng được 
sản xuất bằng sức lao động trẻ em phải đối mặt với sự tẩy chay trên thị trường quốc tế, 
nhất là khi gia nhập WTO. 
2.5. Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ Trẻ em lao động sớm 
Trước thực tế trên, để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền trẻ em, đòi hỏi phải có 
sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, vai trò của các hoạt động công 
tác xã hội nói chung và vai trò của nhân viên công tác xã hội nói riêng là rất quan trọng. 
Với tư cách là người hỗ trợ chuyên nghiệp các đối tượng yếu thế, các hoạt động hỗ trợ của 
nhân viên công tác xã hội được thể hiện ở một số hoạt động cụ thể như sau: 
Vai trò người hỗ trợ tâm lý: Trẻ em lao động sớm có thể phải trải qua những biến cố, 
sự kiện gây tổn hại về mặt thể chất và tâm lý. Do vậy, trẻ là những người dễ bị tổn thương, 
nhạy cảm, luôn lo lắng và tâm thần bất an, không xác định rõ tương lai của mình. Nhân 
viên công tác xã hội lúc này đóng vai trò là người hỗ trợ chính về mặt tâm lý cho các em 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 95 
thông qua những buổi trò chuyện, tham vấn. Sự chia sẻ, động viên của nhân viên công tác 
xã hội sẽ giúp các em an tâm và chủ động nỗ lực giải quyết những vấn đề tiếp theo. 
Những trẻ em lao động sớm đã phải trải qua những mối quan hệ tiêu cực trong quá 
khứ và mất niềm tin vào người khác. Bởi vậy, nhân viên công tác xã hội cần kiên nhẫn 
trong việc thiết lập mối quan hệ tin tưởng và duy trì mối quan hệ này trong suốt quá trình 
hỗ trợ. Mối quan hệ này chỉ có thể được tạo dựng thông qua việc nhân viên công tác xã hội 
thể hiện thái độ chân thành, nhiệt tình và những kĩ năng như lắng nghe và thấu cảm ở mức 
độ cao. 
Trong những trường hợp thân chủ gặp những vấn đề nghiêm trọng về tâm lý, nhân 
viên công tác xã hội có thể giới thiệu thân chủ tới gặp chuyên gia tâm lý hoặc bác sĩ tâm 
thần để tham gia các buổi trị liệu. 
Vai trò người kết nối nguồn lực: Đây là một vai trò quan trọng của nhân viên công tác 
xã hội với tư cách là một người trung gian kết nối nạn nhân với các nguồn lực cần thiết. 
Nguồn lực này có thể là các cá nhân, tổ chức, ban ngành, đoàn thể có liên quan đến vấn đề 
cần giải quyết của thân chủ; hoặc cũng có thể là các dịch vụ sẵn có trong cộng đồng. Cụ 
thể với trẻ lao động sớm, có thể có nhiều nhu cầu cần trợ giúp khác nhau như hỗ trợ về mặt 
tâm lý, pháp lý, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, Bởi vậy, để đảm bảo được vai trò này, 
nhân viên công tác xã hội cần hiểu rõ các dịch vụ, lựa chọn dịch vụ phù hợp với thân chủ 
của mình và trực tiếp giúp họ tiếp cận với các dịch vụ. 
Khi hỗ trợ thân chủ sử dụng các dịch vụ, nhân viên công tác xã hội có thể phải trao đổi 
với những người cung cấp dịch vụ về hoàn cảnh của thân chủ để họ có cách tiếp cận phù 
hợp, tránh làm tổn thương. Có thể kết hợp với gia đình, người bảo hộ của trẻ để có sự 
thống nhất trong việc lựa chọn dịch vụ phù hợp nhất đối với trẻ. Ngoài ra, nhân viên công 
tác xã hội còn là cầu nối giữa thân chủ và gia đình, giúp họ có tiếng nói chung và cùng 
nhau giải quyết vấn đề. 
Vai trò là người giáo dục, nâng cao nhận thức: Một trong những mục tiêu hỗ trợ cho 
trẻ em là có thêm kiến thức, kĩ năng và hình thành những thái độ, hành vi mới để họ có thể 
tự tin hơn trong cuộc sống. Tùy thuộc vào những tình huống cụ thể của thân chủ mà nhân 
viên công tác xã hội có những hoạt động giáo dục hay cung cấp thông tin phù hợp như các 
kiến thức về pháp luật, quyền cơ bản của trẻ em, cách chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa 
bệnh tật hay cung cấp kỹ năng sống cho trẻ. Nâng cao năng lực đối phó với bạo lực tại gia 
đình, bạo lực tại nơi làm việc, phòng chống xâm hại tình dục cũng như cách thức liên hệ 
với những tổ chức bảo vệ trẻ em khi bản thân trẻ nhận thấy có nguy cơ gặp nguy hiểm. Các 
hình thức giáo dục cũng được nhân viên công tác xã hội triển khai một cách đa dạng như 
tham vấn cá nhân, tổ chức sinh hoạt, tọa đàm nhóm hay cung cấp tài liệu. Vai trò giáo dục 
của nhân viên công tác xã hội còn thể hiện ở việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho gia 
đình và những người sử dụng lao động. Có những gia đình hoặc đơn vị hiện đang sử dụng 
lao động trẻ em vào những công việc khác nhau, tuy nhiên họ không ý thức rõ được đó là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 96 
việc làm phạm pháp và có thể bị xử phạt. Chính vì vậy, bản thân gia đình có trẻ em lao 
động sớm, các đơn vị sử dụng lao động cũng cần được cung cấp đầy đủ thông tin về trẻ em 
lao động sớm cũng như được tập huấn để có một cái nhìn đúng đắn hơn. 
Vai trò là người biện hộ: Đây là một vai trò vô cùng quan trọng của nhân viên công 
tác xã hội với tư cách là một người đại diện cho tiếng nói của nạn nhân để bảo vệ cho lợi 
ích hợp pháp của thân chủ, đặc biệt là những thân chủ dưới 18 tuổi và cần có người bảo hộ. 
Trẻ em lao động sớm được xem là một đối tượng yếu thế cần được quan tâm đặc biệt, 
các em thường rất khó có cơ hội để nói ra được những vấn đề của bản thân mình và những 
biến cố mà các em đã trải qua trong cuộc sống, khiến các em trở nên rụt rè, tự ti và khó bảo 
vệ được chính mình, bị xâm phạm nhiều quyền và lợi ích. Vì vậy, nhân viên công tác xã 
hội phải trực tiếp làm việc với các cơ quan chức năng như công an, hội phụ nữ, tòa án để 
biện hộ, bênh vực, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các em. 
Vai trò người hỗ trợ / tạo điều kiện: Nhân viên công tác xã hội là người tạo điều kiện, 
môi trường cho nạn nhân phát huy tiềm năng và tham gia vào quá trình tự giải quyết vấn 
đề của chính họ. Vai trò này được thể hiện ngay từ giai đoạn hỗ trợ ban đầu khi nhân viên 
công tác xã hội và thân chủ lập kế hoạch trợ giúp và được phát huy trong suốt quá trình hỗ 
trợ. Trên cơ sở đánh giá khả năng của nạn nhân và tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền 
tham gia và tự quyết của thân chủ, bản kế hoạch riêng biệt cho từng thân chủ sẽ được thực 
hiện trên tinh thần nhân viên công tác xã hội và thân chủ cùng trao đổi và thống nhất. 
3. KẾT LUẬN 
Bảo vệ, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em luôn là sứ mệnh cao cả của toàn nhân loại. 
Ngăn chặn tình trạng trẻ em phải lao động sớm là cần thiết, nhằm tránh gây ảnh hưởng 
nặng nề đến sự phát triển về thể chất, tổn thương tâm lý đối với trẻ; giúp trẻ có cơ hội đến 
trường và cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội. Trách nhiệm bảo vệ trẻ em không thuộc 
về riêng ai, đòi hỏi sự chung tay góp sức của các bộ ngành có liên quan, của gia đình nơi 
trẻ đang sinh sống, của đơn vị sử dụng lao động, của những tổ chức xã hội tại địa phương 
và hơn hết là những nhân viên công tác xã hội đang hoạt động trong lĩnh vực trẻ em. Hi 
vọng với sự nỗ lực của tất cả các bên liên quan, tình trạng trẻ em lao động sớm trong thời 
gian tới sẽ được giảm thiểu đáng kể, xây dựng cho trẻ em Việt Nam một môi trường sống 
ngày càng hoàn thiện và tốt đẹp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Luật lao động năm 2012. 
2. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2014) : Điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012 - các 
kết quả chính. 
3. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 97 
4. Nghị định số 144/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc 
và giáo dục trẻ em. 
5. Quyết định số 19/2004/QĐ - TTg về việc phê duyệt chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình 
trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều 
kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010. 
6. Phạm Thị Lan Phương (2014), “Phòng chống lạm dụng lao động trẻ em góp phần thúc đẩy 
việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam”, Tạp chí Đại học Quốc gia, Tập 30, Số 4, tr.58-64 
7. Nguyễn Hồi Loan (2006), “Vấn đề lao động sớm của trẻ em nông thôn trong quá trình chuyển 
đổi”, Kỉ yếu hội thảo Quốc tế Việt – Pháp. 
ROLE OF SOCIAL WORKERS IN SUPPORT CHILD LABOR 
Abstract: Children are the future of the country and is an important factor contributing to 
the development of a country. Thus, concern, care and education of children is the 
responsibility of the whole society. However, now a part of our country's children, who 
were laboring early. That, causing serious consequences for themselves, their families 
and the whole society. The article provides the role of social workers in contributing to 
solve the problems. Therefore, we need to help the students of social work having right 
knowledge and orientations for themselves in learning and training. 
Keywords: Role, social workers (social work), children, child labor 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_nhan_vien_cong_tac_xa_hoi_trong_ho_tro_tre_em_la.pdf