Thuận lợi hóa thương mại trong bối cảnh nền kinh tế số ở Asean và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Nền kinh tế số ASEAN được dự kiến sẽ tăng mạnh 6,4 lần, trong thời kỳ
2015-2025 và là động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế vùng. Do đó, các biện pháp
thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới nhanh chóng trở nên quan trọng không chỉ duy trì năng
lực cạnh tranh trong thương mại mà còn giải quyết các thách thức về quản lý thương mại và
logistic cùng với sự gia tăng của thương mại điện tử xuyên biên giới. Tuy nhiên, mức độ thực
hiện các biện pháp trên là không đồng đều tại các quốc gia thành viên ASEAN. Do đó, lợi ích
tiềm tàng đến từ thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới sẽ là rất lớn, đặc
biệt khi các quốc gia cùng hợp tác và phát triển một cơ sở pháp lý và kỹ thuật thống nhất giúp
cho việc trao đổi xuyên suốt dữ liệu và chứng từ liên quan tới các quy định và giao dịch
thương mại dọc chuỗi cung toàn cầu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thuận lợi hóa thương mại trong bối cảnh nền kinh tế số ở Asean và hàm ý chính sách cho Việt Nam
OECD, bao phủ toàn diện thủ tục hải quan và các quy định về thủ 1025 tục thương mại khác tại biên giới được quy định trong TFA. Bộ chỉ số gồm 133 biến, chia thành 11 khía cạnh chính sách: Tính sẵn có của thông tin (A); Sự tham gia của cộng đồng thương mại (B); Quy định trước (C); thủ tục kháng cự (D); Phí và lệ phí (E); Chứng từ (F); Thủ tục (H); Sự hợp tác của các cơ quan biên giới trong quốc gia (I); Hợp tác giữa các cơ quan biên giới ngoài quốc gia (J); quản trị và công bằng (K). TFI là công cụ hữu ích nhằm giám sát và cho điểm mức độ thực thi của một quốc gia đối với các biện pháp thuận lợi hóa thương mại chung, với thang điểm từ 0 (thực thi kém nhất) và 2 (thực thi tốt nhất). Mức độ thực thi 11 mục cụ thể của TFA của các quốc gia thành viên ASEAN được biểu diễn cụ thể trong đồ thị 1 và 2. Nguồn: https://www.oecd.org/trade/topics/trade-facilitation/ Đồ thị 1: So sánh mức độ thực thi thuận lợi hóa thương mại của các quốc gia thành viên ASEAN phân theo nhóm biện pháp năm 2017 Nguồn: https://www.oecd.org/trade/topics/trade-facilitation/ Đồ thị 2: So sánh mức độ thực thi thuận lợi hóa thương mại của các quốc gia thành viên ASEAN năm 2017 1026 Nhóm K (quản trị và công bằng) và nhóm E (Phí và lệ phí) là nhóm biện pháp thuận lợi hóa thương mại được thực thi tốt nhất ở khu vực ASEAN với tổng số điểm thực thi của 10 quốc gia lần lượt là 16,95/20 và 16,62/20. Trái lại, các nhóm biện pháp phối hợp giữa các cơ quan biên giới, với các cơ quan nước ngoài (J) và trong nước (I) và thủ tục – tự động hóa (G) là điểm yếu nhất của các quốc gia thành viên ASEAN khi điểm thực thi lần lượt là 8,05; 9,26 và 10,59. Điểm thực hiện của ba nhóm này tai mỗi quốc gia thành viên ASEAN không đồng đều và có sự phân hóa rõ ràng. Tại nhóm J và I, Singapore (SGP), Brunei (BRN) là hai quốc gia thực thi phối hợp giữa các cơ quan hải quan tốt nhất tại khu vực. Tại nhóm G, Singapore, Thái Lan (THA), Brunei, và Việt Nam (VNM) là bốn quốc gia có điểm số thực hiện vượt trội so với nhóm các quốc gia còn lại, đạt lần lượt là 2; 1,72; 1,61; và 1,38. Các còn lại của nhóm CLMV là Lào (LAO), Myanmar (MMR), Campuchia (KHM) có chỉ số thực hiện tự động hóa thủ tục rất thấp, lần lượt là 0,25; 0,4; và 0,6. Thực tế này cho thấy cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông ở các quốc gia ASEAN phát triển không đồng đều. Một số quốc gia đã có cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông khá tốt, tuy nhiên, một số quốc gia khác trình độ phát triển còn rất hạn chế. Do đó, trong ngắn hạn, việc triển khai các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới trong khuôn khổ WTO TFA dựa trên nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông sẽ gặp nhiều thách thức. Phân tích cụ thể hơn về thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới, tác giả tiếp tục sử dụng kết quả từ nguồn số liệu thứ hai, Khảo sát Toàn cầu về Thực thi Thuận lợi hóa thương mại và Thương mại phi giấy tờ do Ủy ban Vùng Liên hiệp quốc (UNRCs) phối hợp với các đối tác toàn cầu và khu vực tiến hành. Phạm vi nội dung của cuộc khảo sát bao gồm 38 biện pháp thuận lợi hóa thương mại và thương mại phi giấy tờ, chia thành bốn nhóm: các biện pháp thuận lợi hóa thương mại chung (WTO TFA), các biện pháp thương mại phi giấy tờ, các biện pháp thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới, các biện pháp thuận lợi hóa thương mại quá cảnh. Trong phạm vi của bài viết, tác giả tập trung vào thực trạng thực thi của một số các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới thuộc hai nhóm biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ và các biện pháp thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới (do sự phân hóa về thực trạng thực thi của các quốc gia thành viên ASEAN và hạn chế về số liệu, nên tác giả chỉ lựa chọn một số biện pháp trọng tâm trong khuôn khổ ASEAN và có đầy đủ số liệu) và một số biện pháp thuận lợi hóa thương mại thuộc nhóm chung như: Hội đồng thuận lợi hóa thương mại (TLHTM) quốc gia (tiền đề quan trọng trong việc thực thi thuận lợi hóa thương mại) và Xuất bản các quy định liên quan tới XNK trên internet (là bước đầu của việc ứng dụng ICT, minh bạch hóa thủ tục XNK, và tiến tới thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới khác) của 9 quốc gia ASEAN: Cambodia, Lào, Myanmar, Việt Nam trong bảng 3 và nhóm nước ASEAN5: Singapore, Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan trong bảng 4. Thực trạng thực thi được chia thành 4 cấp độ: Thực thi toàn diện (FI); Thực thi một phần (PI); Đang có kế hoạch thực thi (PS); Chưa thực thi (NI). 1027 Bảng 3: Thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ của nhóm nước CLMV năm 2019 Cambodia Lào Myanmar Việt Nam Hội đồng TLHTM quốc gia PI FI FI PI Xuất bản các quy định liên quan tới XNK trên internet FI FI PI PI Tham vấn các bên liên quan về các bản thảo quy định mới FI PI PI FI xuất bản/thông báo trước về các quy định mới trước khi thực thi PI PI PI FI Hệ thống hải quan điện tử/tự động FI PI PI FI hệ thống hải quan một cửa PI PS PI PI Luật và quy định về giao dịch điện tử NI PI PI PI Cơ quan chứng nhận được công nhận NI PS PI PI Khung pháp lý quốc gia và sắp xếp thể chế sẵn có để đảm bảo cho các cơ quan biên giới hợp tác với các quốc gia khác FI FI PI PI Thỏa thuận về thời gian thông quan với các quốc gia láng giềng tại biên giới PI PI PS PI Thỏa thuận về thủ tục thông quan với các nước láng giềng tại các cửa khẩu biên giới PI PI PS PI SMEs tiếp cận một cửa PI NI PS NI SMEs trong hội đồng thuận lợi hóa thương mại quốc gia PI NI PS NI Nguồn: UN Global Survey on Digital and Sustainable Trade Facilitation 2019 Đối với nhóm các biện pháp liên quan tới WTO TFA, các quốc gia thành viên ASEAN đã thực thi khá tốt. 67,7% các quốc gia thành viên ASEAN đã thành lập hội động thuận lợi hóa thương mại quốc gia. 33,3% các quốc gia còn lại đều đã thực thi một phần. Trong trường hợp của Việt Nam, nước này chưa có Ủy ban TLHTM quốc gia, tuy nhiên, một Ủy ban chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại đã được thành lập vào năm 2016 theo Quyết định số 1899/QĐ-TTG ngày 04 tháng 10 năm 2016. Một điều đáng ngạc nhiên là mức độ thực thi biện pháp Hải quan một cửa và Hải quan tự động tại nhóm nước CLMV không cao, chủ yếu ở mức độ thực thi một phần dù hai biện pháp này luôn được coi là trọng tâm trong thực thi thuận lợi hóa thương mại tại khối ASEAN, trong khi nhóm năm nước phát triển hơn đạt mức độ thực thi khá đồng đều và đều ở mức thực thi toàn diện. Tại Việt Nam, hệ thống Hải quan một cửa đã thực sự là bước đà quan trọng trong thực thi biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới khác. Hệ thống đã có tổng cộng 13 Bộ, ngành 1028 tham gia kết nối, triển khai 173 thủ tục hành chính, xử lý 1,97 triệu bộ hồ sơ và trên 28 nghìn doanh nghiệp tính đến ngày 15 tháng 3 năm 2019. Trong thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 đến ngày 15 tháng 3 năm 2019, tổng số C/O mẫu D do Việt Nam gửi đi là 121,198; tổng số C/O mẫu D Việt Nam nhận được từ các nước ASEAN là 69,26433. Tuy nhiên, thực thi hệ thống Hải quan một cửa của Việt Nam vẫn chưa thực sự ―sát với quy định tại các văn bản pháp luật, mức độ hài lòng của doanh nghiệp chưa cao, số lượng doanh nghiệp tham gia chưa nhiều, chưa đảm bảo tạo thuận lợi thương mại với chống gian lận thương mại‖34. Bảng 4: Thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ của nhóm nước ASEAN5 năm 2019 Singapore Indonesia Malaysia Philippines Thailand Hội đồng TLHTM quốc gia PI FI FI FI FI Xuất bản các quy định liên quan tới XNK trên internet FI FI FI FI FI Tham vấn các bên liên quan về các bản thảo quy định mới FI PI FI FI FI xuất bản/thông báo trước về các quy định mới trước khi thực thi FI FI FI FI FI Hệ thống hải quan điện tử/tự động FI FI FI FI FI Hệ thống hải quan một cửa FI FI FI PI FI Luật và quy định về giao dịch điện tử FI PI FI PI PI Cơ quan chứng nhận được công nhận FI NI FI PI FI Khung pháp lý quốc gia và sắp xếp thể chế sẵn có để đảm bảo cho các cơ quan biên giới hợp tác với các quốc gia khác FI PI PI PI PI Thỏa thuận về thời gian thông quan với các quốc gia láng giềng tại biên giới FI FI FI NA FI Thỏa thuận về thủ tục thông quan với các nước láng giềng tại các cửa khẩu biên giới FI FI FI NA FI SMEs tiếp cận một cửa FI NI FI NI PI SMEs trong hội đồng thuận lợi hóa thương mại quốc gia FI NI FI NI NI Nguồn: UN Global Survey on Digital and Sustainable Trade Facilitation 2019 Trong số các biện pháp thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới, hai biện pháp, Luật và quy định cho giao dịch điện tử và cơ quan cấp chứng nhận được công nhận là những tiền đề hướng tới hiện thực hóa trao đổi và công nhận pháp lý của dữ liệu và chứng từ liên quan tới thương mại không chỉ giữa các bên liên quan trong phạm vi một quốc gia mà còn giữa các 33 https://vnsw.gov.vn/profile/detailNews.aspx?id=178, truy cập lúc 10 a.m ngày 15 tháng 1 năm 2020 34 https://vnsw.gov.vn/profile/detailNews.aspx?id=178, truy cập lúc 10 a.m ngày 15 tháng 1 năm 2020 1029 bên liên quan dọc chuỗi cung ứng. Ở cấp độ khu vực, ngoại trừ Singapore, Malaysia và Thái Lan đã thực thi khá tốt hai biện pháp trên, các quốc gia còn lại vẫn ở giai đoạn thực thi một phần, thậm chí không thực thi hai biện pháp này. Tuy hơn 70% các quốc gia các quốc gia tại khu vực Đông Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương tuy đã phát triển một phần khung pháp lý và quy định cần thiết để hỗ trợ các giao dịch điện tử, nhưng các khung này chưa sẵn sàng hỗ trợ sự nhận dạng pháp lý của dữ liệu và chứng từ điện tử nhận được từ các bên tại các quốc gia khác. Đây cũng là thực trạng của các cơ quan chứng nhận được được công nhận, dù đã được thiết lập bởi đa số các quốc gia thành viên ASEAN nhưng chưa hoàn thiện các bước đi cần thiết để ban hành các chứng chỉ xuất, nhập khẩu điện tử được công nhận trong phạm vi toàn khu vực cho các công ty xuất, nhập khẩu trong khu vực. Do thiếu khung thể chế là pháp lý để hỗ trợ thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới, sự tham gia vào trao đổi dữ liệu điện tử xuyên biên giới liên quan tới thương mại cũng bị hạn chế rất nhiều, chỉ trong một phạm vi nhỏ các đối tác nhất định, và thường chỉ được thực thi một phần hoặc trong giai đoạn thử nghiệm. Đây cũng chính là lý do dẫn tới sự tham gia, sử dụng các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới, đặc biệt là hệ thống Hải quan một cửa của SMEs rất thấp tại khu vực ASEAN. Chỉ duy nhất Singapore và Malaysia thực thi toàn diện cơ chế để các SMEs tiếp cận hiệu quả tới hệ thống Hải quan một cửa. Thái Lan và Cambodia đang đã thực thi một phần, Myanmar đang trong giai đoạn lập kế hoạch và bốn quốc gia thành viên còn lại là Lào, Việt Nam, Indonesia và Philippines chưa thực thi biện pháp này. Tóm lại, bài viết đã tập trung phân tích các biện pháp thuận lợi hóa thương mại dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông tiên tiến, còn gọi là các biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ hoặc các biện pháp thương mại thế hệ mới. Trong khi những thành tựu đạt được trong việc thực thi các biện pháp thương mại phi giấy tờ và thuận lợi hóa thương mại quốc gia rất đáng khích lệ thì việc thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới xuyên biên giới vẫn ở mức thấp và phân hóa rõ rệt trong khối ASEAN. Các quốc gia phát triển hơn trong khối ASEAN tuy đã có hệ thống thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ nhưng không hoàn toàn tương tác với các quốc gia thành viên khác trong khu vực bởi vì các quốc gia kém phát triển hơn trong khu vực vẫn đang ở giai đoạn đầu phát triển hệ thống thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới quy mô quốc gia. Do đó, lợi ích tiềm tàng đến từ thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới sẽ là rất lớn, đặc biệt khi các quốc gia cùng hợp tác và phát triển một cơ sở pháp lý và kỹ thuật thống nhất giúp cho việc trao đổi xuyên xuốt dữ liệu và chứng từ liên quan tới các quy định và giao dịch thương mại dọc chuỗi cung toàn cầu TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AJC (2017). Global Value Chains in ASEAN, A Regional Perspective, Paper 1, September 2017, [ https://www.asean.or.jp/ja/wp-content/uploads/sites/2/2017/08/GVC-in- ASEAN_paper-1_-A-Regional-Perspective.pdf] 1030 2. Bin, P. (2008). Trade Facilitation Provision in Regional Trade Agreements in Asia and the Pacific, No 108, Working Paper Series, United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific (ESCAP) 3. Duval, Y. và cộng sự (2019). Next-generation Trade Facilitation for Asian Integration: Cross-border Paperless Trade, [https://journals.sagepub.com/doi/pdf/10.1177/ 2631684618821473] 4. Duval, Y., & Mengjing, K. (2017). Digital trade facilitation: Paperless trade in regional trade agreements, ADBI Working Paper Series, ADBI [https://www.adb.org/sites/default/files/publication/321851/adbi-wp747.pdf] 5. ERIA, (2019). Study on MSMEs Participation in the Digital Economy in ASEAN, Nurturing ASEAN MSMEs to Embrace Digital Adoption [https://asean.org/storage/2012 /05/ASEAN-MSME-Full-Report-Final.pdf] 6. ESCAP, (2002). Trade Facilitation Handbook for the GMS [www.unESCAP.org/tid/publication/t&ipub2224.pdf] 7. ESCAP, (2017). Trade Facilitation and Paperless Trade Implementation In Asia and the Pacific Regional Report 2017 [https://unnext.unESCAP.org/content/global-survey-trade- facilitation-and-paperless-trade-implementation-2017] 8. ESCAP, (2019). Framework Agreement on Facilitation of Cross-border Paperless Trade in Asia and the Pacific [https://www.unESCAP.org/sites/default/files/ UNESCAP%20Framework%20Agreement%20e-book.pdf] 9. Ha, S.H. and Lim, S.W., (2014). The Progress of Paperless Trade in Asia and the Pacific: Enabling International Supply Chain Integration, ADB working paper series on regional economic integration, No.137 [] 10. Layton, B., (2008). ‗Trade facilitation: a study in the context of the ASEAN economic community Blueprint‘, in H. Soesastro (ed.), Deepening Economic Integration— The ASEAN Economic Community and Beyond—ERIA Research Project Report 2007‐1‐2, Chiba, IDE‐JETRO. 11. Shepherd, B. (2016). Trade Facilitation and Global Value Chains: Opportunities for Sustainable Development, Issue Paper, ITCSD, [https://www.ictsd.org/sites/default/ files/research/trade_facilitation_and_global_value_chains_0.pdf] 12. Shepherd, B. và Duval Y., (2015). ―Estimating the benefits of cross-border paperless trade in Asia and the Pacific‖, Chapter V in Reducing Trade Costs in Asia-Pacific Developing Countries, ESCAP Studies in Trade and Investment No. 84, United Nations, Bangkok 13. UN, (2019). Digital and Sustainable trade facilitation: global report 2019, [https://unnext.unESCAP.org/content/un-global-survey-digital-and-sustainable-trade- facilitation-2019] 14. Wong, M. H., và Pellan, M. I., (2012). Trade Facilitation: The Way Forward for ASEAN and Its FTA Partners, ERIA Policy Brief, No. 2012-04, July 2012
File đính kèm:
- thuan_loi_hoa_thuong_mai_trong_boi_canh_nen_kinh_te_so_o_ase.pdf