Thông tin kế toán quản trị chi phí tại doanh nghiệp nhựa
Tóm tắt: Thông tin kế toán quản trị (KTQT) chi phí sẽ là công cụ đắc lực phục vụ công tác
quản trị chi phí tại doanh nghiệp (DN) nhằm giải quyết bài toán kiểm soát chi phí, giảm giá
thành sản phẩm. Hiện nay, ngành nhựa bên cạnh những thành công đạt được thì cũng đang
gặp phải không ít khó khăn trong quá trình sản xuất: nguyên vật liệu đầu vào phải nhập
ngoại, quy mô DN nhỏ, công tác KTQT chưa thực sự được chú trọng, thông tin kế toán chi
phí hầu hết là thông tin quá khứ. Để nâng cao vai trò cung cấp thông tin của KTQT chi phí
các DN nhựa cần triển khai đồng bộ các giải pháp từ khâu phân loại chi phí, lập dự toán đến
lập báo cáo quản trị chi phí.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Thông tin kế toán quản trị chi phí tại doanh nghiệp nhựa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thông tin kế toán quản trị chi phí tại doanh nghiệp nhựa
trị chi phí. Ngành nhựa Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển nhanh chóng, thực sự là ngành có nhiều tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng 15-18%/năm, chỉ đứng sau ngành dệt may và viễn thông, tổng giá trị xuất khẩu đạt trên 3 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2016, cả nước hiện nay có gần 4000 DN và sử dụng đến 200.000 lao động (theo Báo cáo Hiệp hội Nhựa, 2017). Tuy nhiên, có đến hơn 80% DN nhựa là DN nhỏ và vừa với trình độ hạn chế, khoảng 85% thiết bị máy móc phải nhập ngoại, đặc biệt nguồn cung nguyên vật liệu nhựa trong nước không đáp ứng được, ngành nhựa phải nhập khẩu hơn 80%, việc phụ thuộc vào nguyên liệu nhựa nhập khẩu không chỉ khiến cho các DN bị ứ đọng vốn vì phải tích trữ nguyên liệu mà còn tiềm ẩn rủi ro về tỷ giá, và giá dầu thế giới, mỗi khi tỷ giá VNĐ/USD tăng sẽ khiến chi phí nguyên liệu đầu vào của các DN nhựa tăng theo. Bên cạnh đó, chi phí nguyên vật liệu lại chiếm khoảng 70-80% giá thành sản phẩm, dẫn đến giá bán của các DN trong nước rất khó cạnh tranh với các quốc gia có sản phẩm xuất khẩu tương tự (Kiên Dương, 2018). Trước những khó khăn trên, thì việc nâng cao vai trò cung cấp thông tin của KTQT chi phí là một trong những công cụ hữu ích giúp các DN nhựa có các quyết định phù hợp trong quản trị chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Qua khảo sát thực tế tại một số DN nhựa và đặc biệt phỏng vấn chuyên sâu tại công ty cổ phần Nhựa Hà Nội, kết quả cho thấy hệ thống thông tin kế toán chi phí tại các DN nhựa hầu hết là thông tin quá khứ. Kế toán chi phí chưa phục vụ cho việc phân tích các mặt hoạt động của DN để sử dụng hiệu quả các nguồn lực, xây dựng các phương án sản xuất, lựa chọn các quyết định tối ưu trong kinh doanh. Với cách phân loại chi phí như hiện nay thì chưa thực sự giúp cho việc quản trị chi phí trong DN. Phân loại chi phí theo mục đích, công dụng chỉ phục vụ cho việc tính giá thành, lập báo cáo sản xuất theo các yếu tố, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phục vụ cho mục đích kế toán tài chính. Bên cạnh đó, việc xác định các nguồn phát sinh chi phí phù hợp với từng loại chi phí cũng cần được chú ý bởi công tác này là cơ sở cho việc xây dựng định mức và lập dự toán chi phí hợp lý, đồng thời giúp xác định chi phí cho từng đối tượng chịu phí. Như đối với chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN, một số khoản mục mang tính chất biến đổi như chi chí tiếp khách, chi phí điện thoại, chi phí văn n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 90 phòng phẩm... hiện thường được DN nhựa trích theo hình thức khoán chi phí trong khi những chi phí này có nguồn phát sinh chi phí khác nhau. Lập định mức mới chỉ được thực hiện cho chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và là định mức về kỹ thuật. Việc phòng ngừa biến động giá nguyên vật liệu đầu vào (làm cơ sở cho việc xác định đơn giá) cũng chưa được thực hiện. Bên cạnh đó, việc lập kế hoạch mua nguyên liệu hạt nhựa đầu vào chủ yếu căn cứ nhu cầu sản xuất trung bình trong 3 tháng. Chi phí nhân công trực tiếp thường chưa xây dựng dự toán chi tiết do đó lao động trong những khoảng thời gian dư thừa bị buộc nghỉ chờ việc mà không có sự chuẩn bị thông báo trước cho công nhân, việc thừa bao nhiêu và thừa nhân công trong thời gian nào cũng không được tổng hợp theo dõi. Đối với chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN với một số khoản mục có xác định định mức nhưng thực chất lại là khoán chi phí cho các bộ phận, các chi phí này không được dự toán mà ước tính dựa trên kinh nghiệm quản lý của trưởng các bộ phận trong khi các chi phí này khi phát sinh lại do bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Chi phí sản xuất chung ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí nên việc xác định chính xác các khoản mục chi phí cấu thành sẽ có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả trong công tác quản lý như đưa ra quyết định và xác định giá thành sản phẩm sản xuất... Bộ máy kế toán của đơn vị thường mới chỉ đáp ứng về kế toán tài chính phục vụ cho cơ quan quản lý Nhà nước, còn đối với bộ máy KTQT còn mờ nhạt, các nội dung KTQT chi phí chưa được thực hiện một cách triệt để, nhân viên kế toán còn thiếu kỹ năng cung cấp thông tin KTQT chi phí do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Mặc dù, đa số các DN nhựa bước đầu đã xây dựng các báo cáo KTQT chi phí. Tuy nhiên, báo cáo từ một số nguồn thông tin chưa đầy đủ, chưa được lập một cách có hệ thống, chưa đồng bộ. Vì vậy, ảnh hưởng không nhỏ đến dòng thông tin mà KTQT chi phí cung cấp. Thông tin KTQT chi phí thích hợp sẽ là công cụ đắc lực phục vụ công tác quản trị chi phí tại DN, nhằm giải quyết bài toán kiểm soát chi phí, giảm giá thành sản phẩm. Từ đó, đủ cơ sở để đưa ra mức giá mang tính cạnh tranh cao. Vậy để nâng cao vai trò cung cấp thông tin của KTQT tại DN nhựa cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất: Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động Phân loại chi phí là công việc đầu tiên, đặt nền móng cho sự vận hành của hệ thống KTQT tại các DN nói chung và DN nhựa nói riêng. Khi phân loại chi phí nên theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động của chi phí. Chi phí nên được phân chia thành: biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp dựa trên nhiều nguồn phát sinh chi phí: - Chi phí nguyên vật liệu chính (hạt nhựa), nguyên vật liệu phụ và tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất là chi phí biến đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất thuộc nhóm biến phí. - Đối với lương công nhân gián tiếp sản xuất, có bộ phận được trả lương theo tỷ lệ giá trị sản phẩm sản xuất sẽ mang tính biến đổi sẽ thuộc nhóm biến phí. - Chi phí bảo dưỡng máy móc được coi là chi phí cố định trong trường hợp lịch bảo dưỡng và chi phí bảo dưỡng không có nhiều thay đổi trong các kỳ thuộc nhóm định phí. - Chi phí năng lượng điện ở bộ phận sản xuất mang tính chất hỗn hợp vì nó bao gồm điện thắp sáng, điều hòa, quạt (định phí) và điện chạy máy (chi phí biến đổi phụ thuộc vào số giờ của máy chạy). n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 91 - Chi phí điện thoại dùng cho quản lý hành chính được xếp là chi phí hỗn hợp, bao gồm chi phí thuê bao cố định hàng tháng và chi phí phát sinh theo số lượng cuộc gọi thực tế. Thứ hai: Xây dựng định mức chi phí dựa vào các hợp đồng tương lai Do đặc điểm của DN Nhựa có sử dụng rất nhiều mã hạt nhựa nguyên vật liệu mà mỗi loại thường được cung cấp bởi các nhà cung ứng khác nhau, đơn giá của các nguyên liệu này luôn biến động liên tục và phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động giá cả hạt nhựa thị trường thế giới, vì vậy cần xác định trước đơn giá dự kiến cho nguyên vật liệu đầu vào dùng cho sản xuất sẽ giúp hạn chế rủi ro chi phí nguyên vật liệu đầu vào. Hiện nay, các DN nhựa chỉ đến thời điểm đặt nguyên liệu mới nhận được báo giá từ các nhà cung cấp rồi mới so sánh ra quyết định ngay tức khắc sẽ dẫn đến bị động không tránh khỏi rủi ro về giá. Để hạn chế việc biến động chi phí nguyên vật liệu đầu vào có thể thực hiện mua nguyên vật liệu theo các hợp đồng tương lai, là hợp đồng được tiêu chuẩn hóa, được giao dịch trên sàn giao dịch, theo đó người mua hợp đồng có nghĩa vụ mua hàng vào một ngày trong tương lai với mức giá đã xác định trước. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo như thỏa thuận trong hợp đồng và có quyền nhận hàng vào một thời điểm trong tương lai. Để đảm bảo cho các hợp đồng trong tương lai được thực hiện, sàn giao dịch quy định biện pháp đảm bảo đối với cả bên mua và bên bán thông qua cơ chế ký quỹ thực hiện hợp đồng. Với lợi thế về chi phí giao dịch, cơ chế thanh toán thuận tiện, tính thanh khoản cao, số lượng và chất lượng được đảm bảo tiêu chuẩn hóa, hợp đồng giao sau đang ngày càng được nhiều DN nhựa trên thế giới và một số DN nhựa tại Việt Nam lựa chọn như là một công cụ hữu hiệu để quản lý chi phí nguyên vật liệu đầu vào. Đối với định mức chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN sẽ được tổng hợp và lập trên lịch sử chi phí phát sinh từ các kỳ trước và số dự kiến phát sinh trong kỳ này do các bộ phận trong DN và ban giám đốc tính toán. Dựa vào cơ sở phân loại chi phí thành chi phí biến đổi, chi phí cố định và chi phí hỗn hợp thì các chi phí này nên được lập theo từng nơi phát sinh chi phí như từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, phân xưởng, nhà máy, đơn hàng, phòng ban trong DN. Thứ ba: Lập dự toán chi phí chi tiết theo từng quý Dự toán chi phí nên dựa trên đơn hàng cần thiết sản xuất cung cấp và định mức kỹ thuật từng sản phẩm do phòng kỹ thuật công nghệ ban hành, định mức nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ do bộ phận kế toán vật tư cung cấp và định mức giá từng loại nguyên liệu được bộ phận xuất nhập khẩu và bộ phận mua hàng nội địa cung cấp. Cần lập dự toán chi tiết cho từng quý theo các chi tiêu số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ, tồn kho đầu kỳ, cuối kỳ. Do đặc thù trong sản xuất nhựa nhiều chủng loại sản phẩm, giá nguyên vật liệu đầu vào luôn biến động, nhưng chu kỳ sản xuất ngắn nên việc xây dựng dự toán chi phí theo từng quý sẽ dễ dàng trong việc lập dự toán và kiểm soát chi phí. Thứ tư: Xác định đối tượng chịu phí là các sản phẩm Các DN Nhựa nên áp dụng phương pháp xác định chi phí theo hoạt động (ABC) để tính chi phí khuôn mẫu, chi phí khởi động dây chuyền cho những loại sản phẩm nào mà thực tế phải gánh chịu các loại chi phí này. Cụ thể, các chi phí khuôn mẫu, thiết kế, khảo sát, khởi động lại dây chuyền được tính là mức hoạt động theo loại sản phẩm, tức là liên quan đến từng loại sản phẩm mà không kể đến số lượng sản phẩm sản xuất (vì những sản phẩm thử nghiệm sau thiết kế chạy máy tỷ lệ lỗi rất lớn, những sản phẩm ổn định bước đầu thì lại không tính giá n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 92 ngay mà thường được gửi lại cho khách hàng dưới dạng hàng hóa phi mậu dịch không thanh toán). Các chi phí này có nguồn phát sinh là số lượng sản phẩm sản xuất. Sau khi xác định được chi phí khuôn mẫu, thiết kế, khảo sát, khởi động lại dây chuyền trực tiếp cho từng loại sản phẩm. Bộ phận kế toán nên tính giá thành cho từng loại sản phẩm theo công thức sau: Tính giá thành sản xuất loại sản phẩm = Giá trị loại sản phẩm dở dang đầu kỳ + CP NVL TT + CP NC TT + CP khuôn mẫu, thiết kế khảo sát khởi động dây truyền sản xuất loại sản phẩm + CP SXC khác phân bổ cho từng loại sản phẩm + Giá trị loại sản phẩm dở dang cuối kỳ Như vậy, việc áp dụng theo phương pháp xác định chi phí theo hoạt động (ABC) sẽ giúp DN nhựa xác định chính xác các chi phí cho từng đối tượng chịu phí phù hợp với đặc thù sản xuất sẽ đem lại hiệu quả cao trong quá trình sử dụng thông tin chi phí cho mục định quản trị. Thứ năm: Áp dụng phương pháp ước lượng sản phẩm tương đương để xác định giá trị sản phẩm dở dang Các DN Nhựa thường xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tức mặc định giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu. Thực tế đối với các sản phẩm nhựa phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất, mỗi công đoạn đều có sản phẩm dở dang. Việc xác định giá trị sản phẩm dở dang theo định mức chi phí nguyên vật liệu chính như hiện nay tại các phân xưởng dẫn tới gía trị sản phẩm dở dang thiếu chính xác, dẫn đến nhiều khó khăn trong kiểm soát chi phí. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo phương pháp ước tính sản lượng tương đương sẽ xác định chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí chế biến (vật liệu phụ, nhiên liệu, nhân công, chi phí sản xuất chung) từ đó tính toán được đầy đủ chi phí nằm trong sản phẩm dở dang góp phần tính toán giá thành sản phẩm sát với thực tế sản xuất. Thứ sáu: Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc biến động giá và chất lượng của nguyên vật liệu. Các DN nhựa cần xem xét nguyên nhân của biến động như giá thị trường tại thời điểm mua nguyên vật liệu có tăng không, loại vật liệu mua trong kỳ có tốt hơn dẫn đến giá tăng hay do khâu quản lý giá mua nguyên vật liệu, quản lý quá trình xuất nguyên vật liệu còn lỏng lẻo gây thất thoát. Đối với chi phí nhân công trực tiếp cần xem xét nguyên nhân của biến động như chất lượng máy móc thiết bị, tay nghề của những công nhân, việc theo dõi và quản lý công nhân, việc tăng thời gian sản xuất để kịp thực hiện các đơn hàng gấp hay đơn giá tiền công nhân tăng trong kỳ cũng là yếu tố gây biến động tăng đối với chi phí nhân công trực tiếp. Việc phân tích biến động chi phí sản xuất chung biến đổi và chi phí sản xuất chung cố định theo từng yếu tố phát sinh chi phí và khi phân tích biến động chi phí cũng phải dựa trên cơ sở sự thay đổi các nguồn phát sinh chi phí khác nhau. Để đánh giá và kiểm soát được chi phí thì cần phải xác định được nếu cùng một số giờ máy hoạt động và số lần khởi động dây chuyền như nhau thì chi phí thực tế phát sinh thay đổi như thế nào so với định mức chi phí. Để có thể so sánh bộ phận tập hợp chi phí nên thực hiện các bước sau: n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 93 (1) Lập kế hoạch điều chỉnh, tức là lập lại dự toán chi phí cho mức độ hoạt động mới. (2) Sau khi lập lại dự toán chi phí cho mức độ hoạt động mới, tiến hành so sánh chi phí theo dự toán đã điều chỉnh với chi phí phát sinh thực tế. (3) Trên cơ sở so sánh số chi phí thực tế phát sinh với số dự toán đã điều chỉnh, nhà quản lý mới phân tích sự chênh lệch chi phí và đánh giá công tác kiểm soát chi phí tại phân xưởng sản xuất. Thứ 7: Lập báo cáo cung cấp thông tin cho nhà quản trị trong việc ra quyết định Phân tích mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhận là công cụ hữu ích giúp cho nhà quản trị đưa ra các quyết định liên quan đến việc lựa chọn phương án với lợi nhuận tối ưu. Căn cứ vào các nguồn lực hiện có mà DN sẽ lựa chọn các phương án tối ưu chi phí để đạt mức lợi nhuận kỳ vọng. Tuy nhiên các báo cáo tài chính do kế toán tài chính lập phải đảm bảo tính thống nhất, tuân thủ quy định chuẩn mực, chủ yếu phản ánh các chỉ tiêu tổng quát bằng thước đo giá trị, trong khi các nhà quản trị cần các thông tin toàn diện và chi tiết, đặc biệt thông tin phải kịp thời, vì vậy KTQT nên cung cấp các báo cáo dạng mô hình toán học, đồ thị, biểu đồ, báo cáo cần được lập chi tiết cho từng phân xưởng sản xuất, từng sản phẩm, từng đơn hàng và từng loại chi phí Trong công tác KTQT chi phí, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ góp phần nâng cao chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà quản trị ra quyết định. -------------------------------- Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo Hiệp hội Nhựa Việt Nam, 2017 2. Kiên Dương, 2018, Ngành nhựa Việt Nam và bài toán phụ thuộc nguồn nguyên liệu https://vietnambiz.vn/nganh-nhua-viet-nam-va-bai-toan-phu-thuoc-nguon-nguyen-lieu-51660.html, truy cập 23.4.2018 3. Tạ Phúc Tâm, 2018, “KTQT chi phí tại công ty cổ phần Nhựa Hà Nội” Luận văn thạc sĩ, Nhà xuất bản Đại học Nông nghiệp Hà Nội --------------------------------
File đính kèm:
- thong_tin_ke_toan_quan_tri_chi_phi_tai_doanh_nghiep_nhua.pdf