Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam - Số 46 - Tháng 10+11+12/2020
Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương phát biểu khai mạc diễn đàn: “Đối với Việt Nam, đảm bảo an ninh năng lượng được xác định là mục tiêu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị, là nền tảng đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, ưu tiên phát triển nhanh và bền vững đi trước một bước gắn với bảo vệ môi trường, sinh thái, đảm bảo quốc phòng an ninh, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển năng lượng quốc gia từ các giải pháp với chi phí nhỏ hơn 60 Euro/1 tấn CO2 tương đương. Đầu tư cho tiết kiệm năng lượng tạo cơ hội kinh doanh, đầu tư với nhu cầu vốn có thể lên tới 400 tỷ USD trên phạm vi toàn cầu. Tiết kiệm năng lượng góp phần giảm nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng sơ cấp và sẽ giảm phát thải các chất gây ô nhiễm môi trường sống cho người dân. Tiết kiệm năng lượng cũng sẽ làm giảm nhu cầu năng lượng của toàn xã hội, giảm áp lực đối với nguồn năng lượng quốc gia. Tiết kiệm năng lượng giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu, nâng cao sự tự chủ của mỗi quốc gia. Tiết kiệm năng lượng không đem lại lợi ích kinh tế tức thời như các hoạt động đầu tư khác nhưng đem lại lợi ích kép về giảm phát thải khí nhà kính, tạo việc làm, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn và nhập khẩu năng lượng, có thể đáp ứng 7 mục tiêu phát triển bền vững, phục vụ đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững của mỗi quốc gia
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam - Số 46 - Tháng 10+11+12/2020
hiện Chiến lược quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Đến nay, chương trình đã triển khai hoạt động trong 16 năm với Chương trình Mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Theo chương trình, mục tiêu đến năm 2020, phấn đấu 100% dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt chuẩn với số lượng ít nhất 60 lít/người/ ngày, 100% dân cư nông thôn sử dụng nhà vệ sinh hợp vệ sinh và thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, giữ sạch vệ sinh môi trường làng xã, 100% cơ sở chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh. Kết quả đạt được của mục tiêu giai đoạn này là 88,5% dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh; 51% dân nông thôn sử dụng nước đạt chuẩn; 75,2% dân số nông thôn có nhà vệ sinh hợp vệ sinh, mục tiêu về cơ sở chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh cũng cơ bản đạt được. Mặc dù đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, việc cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn vẫn còn nhiều tồn tại. Đó là còn hơn 30 triệu người dân nông thôn chưa được sử dụng nước đạt chuẩn (từ năm 2021 áp dụng Quy chuẩn cấp nước QC-01/2018/QCVN thì số lượng người dân chưa được cấp nước đạt quy chuẩn còn lớn hơn nhiều). Tổng cục Thủy lợi đang đề xuất, kiến nghị về cơ chế chính sách, trình Chính phủ ban hành Nghị định Nước sạch nông thôn; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến 2030, tầm nhìn 2045, trong đó tập trung đảm bảo phần nguồn nước phục vụ cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn, ưu tiên nguồn nước từ các hồ chứa thủy lợi, hệ thống thủy lợi đã và sẽ đầu tư mới trong kế hoạch trung hạn, đảm bảo số lượng và chất lượng; trình Thủ tướng Chính phủ tiếp tục triển khai chương trình tín dụng cho chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn theo hướng tăng mức hỗ trợ, mở rộng đối tượng cho vay. Tiếp tục thực hiện các công trình nước sạch nông thôn theo Môi trường 42 43NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI Bốn giải pháp cấp bách bảo vệ nguồn nước sinh hoạt Để bảo đảm chất lượng các nguồn nước cũng như kiểm soát được các hoạt động khai thác, sử dụng nước và hoạt động xả nước thải vào nguồn nước bảo đảm an toàn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo sở, ban ngành khẩn trương rà soát, thực hiện 4 giải pháp trọng tâm. ĐỨC DŨNG nước, sản xuất, xả nước thải đã nghiêm túc chấp hành quy định của pháp luật; đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND các tỉnh, thành phố cấp giấy phép, giám sát việc chấp hành theo quy định. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều công trình hiện chưa được cấp giấy phép tài nguyên nước; trong đó các công trình hồ chứa, đập, cống, trạm bơm thủy lợi, nhất là các hồ chứa, hệ thống thủy lợi đa mục tiêu có phục vụ cấp nước cho sản suất, sinh hoạt. Thực trạng các công trình hồ chứa, đập, trạm bơm thủy lợi... chưa được cấp phép trên, ngoài việc không tuân thủ pháp luật, không bảo đảm việc kiểm soát hoạt động khai thác, bảo vệ nguồn, chất lượng nước mà còn gây thất thu ngân sách Nhà nước do không tính, phê duyệt và thu được tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Vì vậy, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo, đôn đốc các tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành các công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa có giấy phép tài nguyên nước nghiêm túc chấp hành việc lập hồ sơ đề nghị cấp phép theo quy định. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, bảo vệ nguồn nước các sông, suối, tầng chứa nước, đặc biệt là các nguồn nước có vai trò quan trọng trong việc cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân; thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 28/8/2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo sở, ban ngành khẩn trương rà soát, thực hiện 4 giải pháp trọng tâm. Một là, tổ chức lập, công bố danh mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ và thực hiện cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước đối với sông, suối, kênh rạch, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo ở các đô thị, khu dân cư tập trung và các nguồn nước khác. Đồng thời, chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị quản lý, vận hành các hồ chứa thủy điện, thủy lợi trên T heo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong thời gian qua, kể từ khi Luật Tài nguyên nước được ban hành (từ năm 2012), nhiều tổ chức và cá nhân khai thác nước cho các mục đích phát điện, cấp kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025, ưu tiên các tỉnh thường xuyên bị ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ lụt, ngập úng (6 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long), vùng khan hiếm nước miền núi phía Bắc (Hà Giang, Cao Bằng, Điện Biên) Theo đó, mới đây, Tổng cục Thủy lợi đã vừa phối hợp với Trung tâm quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý Dự thảo Chiến lược quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Dự thảo Chiến lược quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra mục tiêu: đến năm 2030, khoảng 90% dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo QCVN với số lượng tối thiểu 60 lít ngày/người. Các công trình cấp nước tập trung thực hiện cấp nước an toàn. Về vệ sinh: 90% hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh, 100% trường học, trạm y tế xã, chợ nông thôn có nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh được quản lý bền vững. Tầm nhìn của Chiến lược đến năm 2045: tất cả khu vực nông thôn Việt Nam được cấp nước sạch an toàn và bền vững, đảm bảo vệ sinh môi trường của các cộng đồng dân cư nông thôn. Dự thảo được xây dựng dựa trên 4 quan điểm: phát triển bền vững; xã hội hóa và hợp tác công tư; chủ động quản lý rủi ro và ứng phó với thiên tai; kết nối và chia sẻ. Điểm mới trong Dự thảo là kế hoạch hành động cho vùng thuận lợi và khó khăn. Đối với vùng thuận lợi sẽ xây dựng kế hoạch đầu tư và phát triển cấp nước theo hướng tập trung, đồng bộ, hiện đại, áp dụng công nghệ mới. Đối với vùng khó khăn sẽ xây dựng kế hoạch đầu tư và phát triển cấp nước theo hướng lựa chọn nguồn nước, mô hình, giải pháp công nghệ khai thác, sử dụng, vận hành và quản lý bền vững, phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của vùng trong đó thực hiện đồng bộ một số giải pháp về đầu tư, quản lý, hỗ trợ kinh phí từ nhà nước trong xây dựng công trình, bù giá nước. Môi trường SỐ THÁNG 10+11+12/2020 44 45NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI địa bàn khẩn trương hoàn thành việc cắm mốc hành lang bảo vệ hồ chứa theo quy định của Nghị định số 43/2015/NĐ-CP ngày 06/5/2015 của Chính phủ quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước. Theo quy định tại Điều 14 của Nghị định số 43/2015/NĐ- CP, kinh phí cắm mốc hành lang (trừ hành lang bảo vệ hồ chứa do chủ hồ thực hiện) do ngân sách Nhà nước đảm bảo, bao gồm ngân sách địa phương, hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và được bổ sung từ nguồn thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo quy định của pháp luật. Vì vậy, trường hợp ngân sách địa phương không bố trí đủ để thực hiện nội dung nêu trên, đề nghị UBND tỉnh, thành phố tính toán, rà soát, có văn bản đề nghị hỗ trợ từ ngân sách Trung ương gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường để gửi Bộ Tài chính tổng SỐ THÁNG 10+11+12/2020 Môi trường hợp vào dự toán ngân sách hàng năm theo quy định của pháp luật về ngân sách. Hai là, lập, phê duyệt, thông báo vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của công trình khai thác nước trên địa bàn tỉnh, thành phố theo quy định tại Thông tư số 24/2016/ TT-BTNMT ngày 09/9/2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ việc xả thải vào hệ thống sông, hồ, nguồn nước để bảo đảm cấp nước an toàn cho nhân dân, đặc biệt là các nguồn nước có sử dụng cho mục đích sinh hoạt, sản xuất nước sạch. Ba là, ban hành danh mục nguồn nước nội tỉnh theo quy định của Luật tài nguyên nước và trên cơ sở Danh mục nguồn nước liên tỉnh và Danh mục nguồn nước liên quốc gia (nguồn nước mặt) được Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành tại Quyết định số 1757/QĐ- BTNMT ngày 11/8/2020. Bốn là, để nâng cao hiệu quả bảo đảm chất lượng các nguồn nước, nhất là các nguồn nước cấp cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, một trong những biện pháp quan trọng đó là quản lý, kiểm soát được các hoạt động khai thác, sử dụng nước và hoạt động xả nước thải vào nguồn nước thông qua hoạt động cấp giấy phép tài nguyên nước. 46 47NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI SỐ THÁNG 10+11+12/2020 VIETNAM CLEAN ENERGY ASSOCIATION Chung tay vì nguồn nước sạch cho cộng đồng Bên cạnh những nỗ lực bảo đảm nguồn nước sạch cho người dân từ phía cơ quan Nhà nước, nhiều đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp cũng đang vào cuộc mạnh mẽ, chung tay góp phần giảm tỉ lệ người dân không được tiếp cận nước sạch. MAI CHI S ở hữu mạng lưới sông ngòi và hệ thống ao hồ dày đặc nhưng Việt Nam vẫn là một trong số các quốc gia rơi vào tình trạng thiếu nước. Theo Hiệp hội Tài nguyên nước quốc tế (IWRA), nguồn nước nội địa của Việt Nam ở mức trung bình kém, chỉ 3.840 m3/người/năm, thấp hơn đến 400 m3/người/ năm so với mức bình quân toàn cầu. Con số này được Bộ Tài nguyên và Môi trường dự báo chỉ còn một nửa vào năm 2025. Không những thiếu về số lượng, một khảo sát gần đây của Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường còn đưa ra những con số đáng báo động về chất lượng nguồn nước tại Việt Nam. Theo đó, mỗi năm cả nước có khoảng 9.000 người tử vong do nguồn nước và vệ sinh kém, gần 250.000 người nhập viện vì tiêu chảy cấp bởi nguồn nước sinh hoạt ô nhiễm và khoảng 200.000 người mắc bệnh ung thư mà một trong những nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước. Để cải thiện chất lượng nguồn nước, Việt Nam đã không ngừng kêu gọi sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế từ nhiều năm trước. Đầu tiên phải kể đến chương trình Mục tiêu Phát triển toàn cầu (MDG) về cấp nước và vệ sinh do Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), WHO phát động với sự tài trợ của những chính phủ và các tổ chức thế giới. Từ năm 2000, chương trình đã giúp Chính phủ Việt Nam phát triển chiến lược “Cung cấp nước sạch nông thôn và vệ sinh quốc gia đến năm 2020”. Trong khi đó, mới đây, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Công ty CP Nước - Môi trường Bình Dương (BIWASE) đã ký kết khoản vay trị giá 8 triệu USD để mở rộng Nhà máy nước Tân Hiệp ở tỉnh Bình Dương, một trong những tỉnh có tốc độ phát triển nhanh nhất ở Việt Nam. Việc mở rộng nhà máy bao gồm tăng năng lực sản xuất, lắp đặt thêm các trạm bơm nước thô và xây dựng các đường ống dẫn nước thô từ công trình thu nước trên sông Đồng Nai. Việc nâng cấp này sẽ giúp đáp ứng nhu cầu về nước đang gia tăng của khách hàng hộ gia đình và doanh nghiệp ở thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên, thành phố mới Bình Dương và thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, nơi các khu công nghiệp đang cung cấp việc làm cho gần 1,3 triệu lao động địa phương và hơn 500.000 người nước ngoài. Gói tài trợ này cũng bao gồm khoản đồng tài trợ song song trị giá 8 triệu USD từ Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản. Kèm theo các khoản vay, một khoản hỗ trợ kỹ thuật trị giá 500.000 USD cũng sẽ được cung cấp bởi Quỹ Đối tác Tri thức và châu Á điện tử do Hàn Quốc thành lập năm 2006 để giúp các quốc gia thành viên đang phát triển của ADB đáp ứng mục tiêu phát triển của mình thông qua việc tạo lập, chia sẻ kinh nghiệm, thông tin và tri thức. Các trụ nước sạch công cộng giúp người dân dễ dàng tiếp cận nguồn nước vệ sinh. Môi trường 48 NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI SỐ THÁNG 10+11+12/2020 Ông Jackie B. Surtani, Trưởng ban Tài chính hạ tầng Đông Nam Á, Đông Á và Thái Bình Dương thuộc Vụ Nghiệp vụ Khu vực tư nhân của ADB nhận định: “Khoản tài trợ này sẽ mang lại nguồn cung cấp nước hiệu quả và bền vững ở tỉnh tăng trưởng nhanh như Bình Dương, thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai và góp phần vào nền kinh tế tổng thể. Đây là một tín hiệu mạnh mẽ cho các nhà tài trợ quốc tế khác rằng việc tài trợ thương mại cho khu vực tư nhân trong lĩnh vực cấp nước của Việt Nam là khả thi và hấp dẫn. Chúng tôi cũng rất vui mừng được làm việc với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản trong giao dịch này để hỗ trợ sự phát triển của ngành nước Việt Nam”. Chủ tịch HĐQT của BIWASE Nguyễn Văn Thiền chia sẻ: “Chúng tôi đánh giá cao mối quan hệ lâu dài với ADB, bắt đầu từ năm 2002 khi chúng tôi tham gia dự án cấp nước và vệ sinh các đô thị tỉnh lỵ giai đoạn ba. Chúng tôi rất cảm kích sự hỗ trợ tiếp tục của ADB khi cung cấp giải pháp toàn diện cho phép BIWASE chuyển đổi từ khoản tài trợ có bảo lãnh của chính phủ sang tài trợ khu vực tư nhân độc lập, để công ty tiếp tục con đường phát triển của mình. Chúng tôi mong đợi ADB tiếp tục tham gia tài trợ cho ngành nước Việt Nam và hy vọng sẽ được làm việc nhiều hơn nữa với ADB trong tương lai”. Khoản hỗ trợ kỹ thuật sẽ giúp xây dựng năng lực về quản lý tài chính, kinh doanh và lập kế hoạch hoạt động thích ứng biến đổi khí hậu. Nó cũng sẽ tăng cường cơ sở pháp lý của khung hoạt động và kinh doanh giữa BIWASE và UBND tỉnh Bình Dương. ADB đã hỗ trợ ngành nước của Việt Nam từ năm 1993, thông qua 7 khoản vay có bảo lãnh của chính phủ, bao gồm Chương trình Đầu tư ngành nước. Một dự án đáng chú ý khác là dự án “Nước sạch cho thành phố Hà Nội” do Coca-Cola Việt Nam và DuPont tài trợ thông qua Trung tâm Sức khỏe gia đình và Phát triển cộng đồng (CFC Việt Nam). Trong khuôn khổ dựa án, các hệ lọc nước uống tại vòi có công suất 80 lít/giờ, được đặt hàng thiết kế riêng cho Hà Nội. Chất lượng nước đầu ra đều bảo đảm đạt chỉ tiêu chuẩn chất lượng nước uống tại vòi QCVN 6 -1:2010/ BYT do Bộ Y tế quy định. Được biết, đơn vị tài trợ sẽ tiếp tục hỗ trợ công tác vận hành và bảo trì các hệ thống máy lọc nước cho đến quý I/2021, trước khi bàn giao cho ban quản lý. Chung tay góp phần giảm tỉ lệ người dân không được tiếp cận nước sạch. Môi trường CÔNG TY CỔ PHẦN KINH DOANH NƯỚC SẠCH HẢI DƯƠNG HAI DUONG WATER JOINT STOCK COMPANY HADUWACO Trụ sở chính: Số 10, Đường Hồng Quang, P. Quang Trung, Tp. Hải Dương, Tỉnh Hải Dương Điện thoại: (0220) 3840380 – 3859104; Fax: (0220) 3840393 – 3859010 Email: ctycnhd@vnn.vn; Website:
File đính kèm:
- tap_chi_nang_luong_sach_viet_nam_so_46_thang_1011122020.pdf