Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản)

Hệ thống năng lượng tái tạo đã được lắp đặt một cách phổ biến vì có khả năng là

thay thế năng lượng hóa thạch, giúp góp phần giảm tình trạng nóng lên toàn cầu.

Ngoài việc sinh lợi từ các dịch vụ cung cấp giải pháp năng lượng tái tạo, những ảnh

hưởng kinh tế tích cực gián tiếp của việc lắp đặt hệ thống năng lượng tái sinh cũng

cần được nghiên cứu thêm. Bài viết này nghiên cứu về triển vọng của năng lượng tái

tạo trong việc tạo động lực mới cho nền kinh tế cục bộ địa phương. Những thay đổi

kinh tế được phân tích bằng phương pháp phân tích đầu vào- đầu ra ở vùng nông

thôn Nhật Bản và được phân tích thành tích cực và tiêu cực. Ngoài ra, bài viết còn

tập trung vào những thay đổi nhờ vào năng lượng tái tạo trong những ngành đặc

thù như xây dựng, dịch vụ, ngân hàng.

Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản) trang 1

Trang 1

Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản) trang 2

Trang 2

Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản) trang 3

Trang 3

Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản) trang 4

Trang 4

Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản) trang 5

Trang 5

pdf 5 trang duykhanh 18860
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản)

Mô hình phân tích đầu vào đầu ra của hệ thống năng lượng tái tạo (Trường hợp phân tích điển hình tại Nhật Bản)
 
năng lượng tái tạo giữa các địa phương là rất khác nhau. Vì vậy, các 
ảnh hưởng kinh tế của những cơ sở thu hoạch năng lượng tái sinh 
cần được nghiên cứu ở từng vùng nhỏ của từng nước. Ở Nhật Bản, 
vẫn chưa có một nghiên cứu nào tập trung vào vấn đề trên ở những 
vùng nông thôn. 
Nakata và cộng sự (2003), đã mô tả hệ thống nàylà một dạngtích 
hợp năng lượng tái tạo vào các ngành công nghiệp khác. Nhờ vậy, 
các vùng nông thôn Nhật Bảnđã có một phương pháp cung cấp 
điện và điều hòa với phí tổn rất thấp. Họ đã chứng minh rằng, một 
vùng nông thôn bất kỳ có thể giảm đến 44.1% chi phí cho năng 
lượng. Nghiên cứu này đã thu thập và nghiên cứu dữ liệu về ảnh 
hưởng kinh tế của việc lắp đặt hệ thống năng lượng tái tạo ở nông 
thôn. 
Nghiên cứu này đã có những kết luật sau: 2,1 triệu đô-la kích 
cầu là một hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế. Số tiền này bắt nguồn 
từ nhu cầu xây dựng và vận hành hệ thống năng lượng tái sinh. 
Tuy nhiên, 3,5 triệu đô-la đã mất khỏi nền kinh tế khu vực vì việc 
giảm nhu cầu cho hệ thống phân phối điện và xăng dầu. Vì tiết 
kiệm được chi phí cho hệ thống phân phối, 2,7 triệu đô-la đã được 
tiêu thụ thêm. Những tác động xấu đến nền kinh tế trong ngành 
điện và xăng dầu là rất lớn. Bên cạnh đó, ngành xây dựng, lắp đặt, 
thương mại và dịch vụ có những ảnh hưởng rất tích cực. Chi phí cho 
năng lượng của một vùng nông thôn được giảm đến 4,3 triệu đô-la. 
Ngoài ra, các vùng lân cận đều có thêm 2,7 triệu đô la vào nền kinh 
tế và tạo thêm trung bình 35.1 việc làm. 
Ở các vùng lân cận, có khá ít nền công nghiệp sản xuất, những 
ngành chính yếu ở đây là nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp, khai 
thác khoáng sản và xây dựng. Những tác động tích cực lên nền kinh 
tế của các tỉnh thành lân cận có phân bố kinh tế giống với quận 
Iwate là rõ ràng. 
TóM TắT
Hệ thống năng lượng tái tạo đã được lắp đặt một cách phổ biến vì có khả năng là 
thay thế năng lượng hóa thạch, giúp góp phần giảm tình trạng nóng lên toàn cầu. 
Ngoài việc sinh lợi từ các dịch vụ cung cấp giải pháp năng lượng tái tạo, những ảnh 
hưởng kinh tế tích cực gián tiếp của việc lắp đặt hệ thống năng lượng tái sinh cũng 
cần được nghiên cứu thêm. Bài viết này nghiên cứu về triển vọng của năng lượng tái 
tạo trong việc tạo động lực mới cho nền kinh tế cục bộ địa phương. Những thay đổi 
kinh tế được phân tích bằng phương pháp phân tích đầu vào- đầu ra ở vùng nông 
thôn Nhật Bản và được phân tích thành tích cực và tiêu cực. Ngoài ra, bài viết còn 
tập trung vào những thay đổi nhờ vào năng lượng tái tạo trong những ngành đặc 
thù như xây dựng, dịch vụ, ngân hàng. 
thS.tRần tHẾ DU 
Tổng công ty Điện lực miền Nam
BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 27 
nhỮng Khu vựC đưỢC Khảo Sát 
Những khu vực trong vùng Kuzumaki, thuộc quận Iwate, nằm ở phía Đông Bắc Nhật Bản 
Hình 1: Vị trí địa lý của vùng Kuzumaki và quận Iwate 
Aomori prefecture: Quận Aomori; Akita prefecture: Quận Akita; Miyagi prefecture: Quận Miyagi; 
Yamagata prefecture: Quận Yamagata; Fukushima prefecture: Quận Fukushima; Tohoku region: vùng Tohoku
có rất nhiều gió và nguồn năng lượng sinh học dồi dào, phù hợp cho việc xây dựng hệ thống năng 
lượng tái tạo. Nhật độ trung bình hằng năm là 8.8oC. Dân số trong vùng là 8961 người, số lượng súc 
vật chủ yếu là 10700 con bò. Nhu cầu điện hằng năm là 38, 079 MWh. Ước tính nhu cầu cho sưởi ấm 
mỗi năm là khonảg 40,579 aMWh. Hằng ngày, năng lượng từ bức xạ ánh sáng mặt trời trên toàn cầu 
được tính trung bình là khoảng 3.32kWh/m2. Trong vùng Kuzumaki, có ba tuabin chạy bằng gió được 
lắp đặt, với tốc độ gió trung bình ở độ cao 36mlà7.9 m/s. Hình 1 cho ta thấy vị trí của vùng Kuzumaki 
và địa lý quận Iwate.
Quận Iwate được chọn để nghiên cứu về ảnh hưởng kinh tế của năng lượng tái tạo bởi vì vùng 
Kuzumaki có lắp đặt hệ thống để thu hoạch dạng năng lượng này. Quận Iwate quản lý vùng Kuzamiki 
và các vùng lân cận. Hình 2 thể hiện thống kê của khả năng tự túc năng lượng của các ngành công 
nghiệp và dịch vụ trong quận Iwate. 76.8% nhu cầu cho ngành sản xuất của quận Iwate được đáp ứng 
bởi các quận xung quanh vì ngành sản xuất của quận Iwate còn yếu. Tỉ lệ các công ty trong ngành xây 
dựng và lắp đặt đạt được sự độc lập về năng lượng là 100%, còn trong ngành dầu khí và điện là 54.5%. 
Tổng giá trị sản lượng của quận Iwate là 41.2 tỷ đô la vào năm 2003.
Hình 2: Tỉ lệ các công ty không 
phụ thuộc vào năng lượng 
lưới điện trong các ngành 
công nghiệp và dịch vụ của 
quận Iwate. Agriculture: Nông 
nghiệp; Stocbreeding: Chăn 
nuôi; Forestry: Lâm nghiệp; 
Mining: Khai thác khoáng sản; 
Manufacture: Công nghiệp 
sản xuất; 
Construction and installation: 
xây dựng và lắp đặt; Gas and 
electricity: Dầu khí và điện; 
Trade: Kinh doanh; Banking 
and insurance: ngân hàng và 
bảo hiểm; Transportation: Vận 
tải; Buisiness services: Dịch vụ 
kinh doanh.
28 BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018
Phương thứC nghiên Cứu và dỮ Liệu đầu vào:
Để có thể đánh giá được ảnh hưởng kinh tế lên quận Iwate được 
bắt nguồn từ những thay đổi vì cách chi tiêu của vùng Kuzuma-
ki, một bảng 35x35 dùng phương pháp nhập lượng- xuất lượng, 
xuất bản bởi quận Iwate vào năm 1998 được sử dụng. Những 
ngành kinh doanh nhỏ lẻ năng lượng tái tạo do ảnh hưởng rất nhỏ 
nên được bỏ qua. Kinh phí cho hệ thống năng lượng tái tạo được 
ước tính như là nhu cầu cuối cùng trong phân tích đầu vào đầu ra. 
CáCh hệ thống dỮ Liệu
Hiện trạng của những hệ thống năng lượng tái tạo tích hợp của 
vùng Kuzumaki được thống kê và tổng hợp bằng nghiên cứu của 
Nakata được thể hiện trong hình 3. Nếu không có hệ thống năng 
lượng tái sinh, quận Iwate phải dùng điện hoàn toàn được cấp từ hệ 
thống lưới điện quốc gia. Năng lượng gió tạo ra 9.6 MW là khởi đầu 
cho nguồn năng lượng tái tạo của quận. Quan ngại về tỉ lệ nguồn 
cung năng lượng làm ấm, vùng Kuzumaki đã lắp đặt hệ thống địa 
nhiệt, cung cấp 1.7 MW (tương đương 10.1% nhu cầu hiện hữu) và 
dầu khí sẽ cung cấp phần 89.9% còn lại. Năng lượng dư được thu 
hoạch từ tuabin gió được bán cho điện lực, giúp cho vùng có thêm 
thu nhập hằng năm là 0.7 triệu đô la. 
Hình 3: Tỉ lệ thành 
phần của các hệ thống 
năng lượng tái tạo 
Grid: Lưới điện quốc 
gia; Wind: Gió; GHP 
(Geothermal Heat 
and Power): địa 
nhiệt; Petrolium: dầu 
khí; Biomass: năng 
lượng sinh học; 
PV( Photovoltaics): 
năng lượng mặt trời; 
Electricity: Điện; 
Heat: làm ấm.
Bảng 1 thể hiện chi tiết các 
thành phần của chi phí cho 
năng lượng trong vùng. Từ bảng 
trên, ta thấy được chi phí xây 
dựng và lắp đặt (C&I) là 2.8 triệu 
đô-la cho hệ thống năng lượng 
tái tạo. Chi phí cho vận hành và 
bảo dưỡng (O&M) cho các công 
trình này là 0.16 triệu đô la cho 
mỗi năm, chi cho nhiên liệu đã 
giảm xuống tới ngưỡng 1.2 triệu 
đô la 1 năm, chi cho mua điện 
từ lưới điện quốc gia đã giảm 
71% xuống còn 2.0 triệu đô la 
một năm. Tổng cộng hằng năm, 
người dân trong vùng tiết kiệm 
được 5.3 triệu đô la, và số tiền 
này được cho rằng sẽ chảy vào 
nền kinh tế qua sức mua trong 
vùng. Ngoài ra, tỉ lệ tiêu dùng và 
sức mua trong vùng Kuzumaki 
được giả định là ngang với trung 
bình trong quận Iwate. 
Kết quả
Ảnh hưởng của việc chi cho 
năng lượng tái tạo lên nền kinh 
tế và việc làm
Hình 4 cho thấy những ngành 
công nghiệp và dịch vụ được 
hưởng lợi từ những chi phí cho 
công trình năng lượng tái tạo. 
Lưu ý rằng chi phí cho vân hành 
và bảo dưỡng (O&M) là hằng 
năm. Ngành xây dựng và lắp 
đặt chiếm một phần lớn những 
lợi ích trên, cụ thể là ngành xây 
dựng tuabin thu hoạch năng 
lượng gió. Tác động kinh tế tích 
cực còn có thể thấy trong ngành 
dịch vụ kinh doanh. Tác động 
này bắt nguồn từ nhu cầu cho 
tư vấn kinh tế và bảo dưỡng của 
các công trình năng lượng tái 
tạo. Những xu hướng tích cực 
cũng có thể thấy trong ngành 
ngân hàng và bảo hiểm, nguyên 
nhân là lãi từ việc cho vay vốn 
thi công. Trong bài viết này, giả 
định là một nửa chi phí cho thi 
công và lắp đặt hệ thống năng 
lượng tái tạo được cung cấp bởi 
nguồn vay từ những hình thức 
tín dụng. Kết quả là 2.0 triệu 
đô la hiệu quả kinh tế được bắt 
nguồn từ chi phí 2.8 triệu đô la 
cho xây dựng và lắp đặt. Tương 
tự, 0.3 triệu đô-la hiệu quả kinh 
tế được chuyển hóa từ 0.2 triệu 
Bảng 1: Kinh phí 
cho hệ thống 
năng lượng trong 
vùng Kuzumaki;
BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 29 
kinh phí cho bảo dưỡng và vận hành. Vì quận 
Iwate không có ngành công nghiệp sản xuất, gia 
công thiết bị cho năng lượng gió, toàn bộ tuabin 
được nhập từ ngoài quận, những ảnh hưởng kinh 
tế trong quận từ thi công và lắp đặt năng lượng 
gió đã được ước tính thấp hơn.
Hình 6 thể hiện ảnh hưởng của việc đổi mới 
sang năng lượng tái tạo lên việc làm cho quận 
Iwate. 2.1 triệu đô-la được chảy vào nền kinh tế 
của quận vì nhu cầu cho xây dựng cơ sở hạ tầng 
cho năng lượng tái tạo. 0.3 triệu đô-la lợi nhuận 
được sinh ra từ nhu cầu vận hành và bảo dưỡng. 
Tiết kiệm được 3.5 triệu đô-la cho việc mua điện 
và 0.4 triệu đô la cho dầu khí. Sức mua, chi tiêu 
của người dân trong quận được tăng thêm 4.3 
triệu đô-la.
Hình 4: Ảnh hưởng lên kinh tế của năng lượng tái tạo 
trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong quận 
Iwate Construction and installation: Xây dựng và lắp đặt; 
Business services: Dịch vụ kinh doanh; Transportation: 
Vận tải; Real estate: Bất động sản; Trade: Thương mại; 
Personal serives: dịch vụ cá nhân;
Hình 5 thể hiện ảnh hưởng lên việc làm từ 
các chi phí cho năng lượng tái tạo. Những ngành 
được khảo sát đều có tín hiệu tích cực giống như 
kinh tế chung của ngành. Có khá ít những ảnh 
hưởng của lên việc làm trong ngành kinh doanh 
được giải thích bởi vốn dĩ ngành này có hệ số việc 
làm thấp, khoảng 1.4 (việc làm/triệu đô la), vốn dĩ 
thấp hơn trung bình của quận Iwate (8.7 việc làm/
triệu đô la). Hệ số việc làm của các ngành kinh 
doanh là 17.1 việc làm/triệu đô la, ngân hàng và 
bảo hiểm là 11 việc làm/triệu đô la, giao thông 
vận tải là 6.9 việc làm/triệu đô la. Tác động vào 
việc làm trong ngành kinh doanh được ước tính 
là lớn hơn ngành ngân hàng và giao thông vận tải
Hình 5: Ảnh hưởng lên việc làm của năng lượng tái tạo 
trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong quận 
Iwate So sánh ảnh hưởng kinh tế và việc làm giữa năng 
lượng tái tạo và năng lượng không tái tạo
Hình 6: Tác động vào nền kinh tế và việc làm của việc 
thay đổi cơ cấu chi tiêu cho năng lượng
Changes in the economic effect in Iwate 
prefecture derived by the changes in the expense 
in Kuzumaki town: Những thay đổi kinh tế của 
quận Iwate phát sinh từ những thay đổi trong cơ 
cấu chi tiêu của vùng Kuzumaki Changes in the 
employment effect in Iwate prefecture derived by 
the changes in the expense in Kuzumaki town: 
Những thay đổi trong việc làm của quận Iwate 
phát sinh từ những thay đổi trong cơ cấu chi tiêu 
của vùng Kuzumaki
C&I Cost: Chi phí cho xây dựng và lắp đặt; Annual Cost: 
Chi phí hằng năm; Additonal consumption: Sức mua 
được tăng thêm; Renewable Energy: Năng lượng tái tạo; 
Petroleum, Gas: Dầu Khí; Grid electricity: Lưới điện.
Việc có nguồn đầu tư cho xây dựng, lắp đặt,và 
bảo dưỡng đã tạo ra 18 việc làm. 33.8 việc làm 
được tạo ra nhờ vào 4.3 triệu đô la chi tiêu thêm. 
Tuy nhiên, vì nhu cầu mua điện qua lưới điện 
quốc gia giảm, 11.4 công việc đã mất đi. Như vậy, 
tổng cộng đã có 2.7 triệu đô-la chảy vào nền kinh 
tế của quận, cùng với 35.1 công việc được tạo 
thêm vì sử dụng năng lượng tái sinh. 
So sánh những thay đổi về kinh tế và việc 
làm trong từng ngành phát sinh từ việc tái cơ 
cấu chi phí cho năng lượng
Hình 7 cho thấy sự thay đổi trong ảnh hưởng 
kinh tế lên từng nhóm ngành. Phần tăng thêm 
của sức mua có ảnh hưởng đáng kể lên nhiều 
30 BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018
lãnh vực, trong đó cần kể đến 1.1 triệu đô-la chảy vào ngành bất động sản. 
Khu vực kinh tế bị ảnh hưởng xấu nhiều nhất vẫn là dầu khí và điện, với 2.7 
triệu đô-la mất đi. Ảnh hưởng tích cực do sức mua tăng và tiêu cực do giảm 
nhu cầu xăng dầu xảy ra cùng lúc cho ngành thương mại. 
Kết Luận
Việc lắp đặt hệ 
thống năng lượng tái 
tạo trong vùng Kuzu-
maki tạo nên nhu cầu 
trong ngành xây dựng 
và ngành bảo dưỡng, 
giảm lệ thuộc vào việc 
mua điện trên lưới điện 
quốc gia, tiết kiệm chi 
phí năng lượng và gia 
tăng sức mua của người 
dân. Cụ thể là chi phí 
cho năng lượng giảm 
4.3 triệu đô la trong 
năm đầu tiên. 2.7 triệu 
đô-la được tạo ra chảy 
vào nền kinh tế cục bộ, 
và tạo thêm 35.1 việc 
làm. Những tác động 
kinh tế tiêu cực lên 
ngành dầu khí và điện 
lực của quận Iwate 
cũng sẽ ảnh hưởng lên 
ngành này ở các quận 
xung quanh. Quận 
Fukushima chịu ảnh 
hưởng xấu lớn nhất 
trong các quận khu 
vực Tohoku do quận 
này có nhiều nhà máy 
năng lượng hạt nhân. 
Tuy nhiên, nếu xem 
xét thêm chi phí vận 
hành và truyền tải lưới 
điện, các quận Akita 
và Miyagi cũng có nhà 
máy điện cũng sẽ chịu 
thiệt hại về kinh tế, 
do các nhà máy trong 
quận này đã cũ và hiệu 
suất thấp. 
thảo Luận
Dựa trên báo cáo 
của eWeA (european 
Wind energy Association, 
Hội Năng Lượng Gió 
Châu Âu, năm 2003) 
năng lượng gió tạo 
ra 30,000 việc làm ở 
Châu âu. Ủy ban Châu 
Âu trong một bài báo 
cáo kết luận rằng nếu 
trong năm 2020, 12% 
nhu cầu điện của thế 
giới được cung cấp bởi 
năng lượng gió thì 1.8 
triệu việc làm sẽ được 
Hình 7: So sánh ảnh hưởng kinh tế lên từng nhóm ngành, phát sinh từ chi phí của hệ 
thống năng lượng 
Agriculture: Nông nghiệp; Mining: Khai khonág; Food and beverages: Ăn uống; 
Construction and installation: Xây dựng và lắp đặt; Gas and electrictiy: Dầu khí và điện; 
Trade: Thương mại; Banking and Insurance: Ngân hàng và bảo hiểm; 
Communication: Truyền Thông; Government services: 
Dịch vụ công; Medical and social services: Dịch vụ y tế.
Những khác biệt về kinh tế và việc làm được tác động bởi năng lượng tái 
tạo trong sáu quận thuộc khu vực Tohoku
Bảng 2 cụ thể hóa những thay đổi kinh tế của sáu quận trực thuộc khu 
vực Tohoku phát sinh từ việc thay đổi cơ cấu kinh phí cho năng lượng tái 
tạo của quận Iwate. Một hệ thống phân tích nhập lượng xuất lượng cho 
cả khu vực Tohoku, được phân ra thành 52 phân khúc kinh tế, để đánh 
giá hiệu ứng lan tỏa từ quận Iwate.Bảng 2-(a) cho thấy quận Aomori và 
Miyagi được hưởng tác động tích cực lên kinh tế, góp phần tạo thêm việc làm. 
Quận Aomori được hưởng lợi từ nhu cầu cho các nguyên liệu kính, và quận 
Miyagi thừa hưởng được sức chi tiêu tăng của người dân trong quận Iwate 
cho các dịch vụ ăn uống. Quận Iwate vẫn nhập lưới điện từ các vùng lân cận, 
chủ yếu từ vùng Fukushima. Tuy nhiên, vì hệ số việc làm của ngành điện 
trong quận Iwate vốn dĩ đã thấp, ảnh hưởng kinh tế tiêu cực lên ngành này 
là nhỏ. 
Table 2: Bảng 2 so sánh ảnh hưởng kinh tế lên các quận trong khu vực Tohoku được phát 
sinh từ năng lượng tái tạo trong quận Iwate.
BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 31 

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_phan_tich_dau_vao_dau_ra_cua_he_thong_nang_luong_tai.pdf