Tài liệu Sáng kiến quản lý về giới và chính sách kinh tế ở châu Á – Thái Bình Dương: Giới và đói nghèo
BÀI TẬP 1
Mục tiêu: trực tiếp tham gia bài trình bày và phiên thảo luận về định nghĩa
và cách thức đo lường đói nghèo trong Phần 1 của học phần này.
Học viên tự chia thành các nhóm từ bốn đến năm người. Nhiệm vụ của
họ là suy nghĩ dựa trên những kinh nghiệm và hiểu biết của bản thân
về chính quốc gia của mình để thảo luận về chủ đề đói nghèo thực sự
là gì. Học viên được khuyến khích nghĩ về đói nghèo không chỉ theo
nghĩa thông thường khi xét về mặt thiếu thu nhập, mà còn về những
khía cạnh khác của đói nghèo chẳng hạn như thiếu lương thực, nước và
chỗ ở, tình trạng sức khoẻ, thiếu cơ hội, thiếu nguồn nhân lực trong các
ngành, ví dụ như ngành y tế, thiếu năng lực ở chính quyền cấp trung
ương và địa phương, sự cô lập xã hội và các vấn đề khác. Mỗi nhóm nên
dành 20 phút để đưa ra định nghĩa riêng về đói nghèo trong đó có các
khía cạnh về thu nhập và phi thu nhập. Học viên được khuyến khích suy
nghĩ vượt ra khỏi khuôn khổ của các cách thức xác định đói nghèo điển
hình.
Khi đã đưa ra được định nghĩa, học viên nên dành thêm 20 phút nữa để
suy nghĩ và thảo luận về những câu hỏi sau đây:
Đã có khía cạnh giới trong định nghĩa về đói nghèo của họ chưa?
Nữ giới hay những người giới tính thứ thứ ba trải nghiệm đói nghèo
có khác với nam giới không?
Nữ giới và những người giới tính thứ ba ứng phó với đói nghèo
theo các cách khác với nam giới hay không?
Nữ giới và nam giới trong một gia đình ứng phó với đói nghèo bằng
cách nào?4
Khi xem xét khu vực Châu Á và Thái Bình Dương một cách riêng
biệt, có sự khác nhau đáng kể nào trong việc xác định ý nghĩa thực
sự của ‘đói nghèo’ tại mỗi khu vực không?
Các nhóm sẽ trình bày định nghĩa về đói nghèo và các khía cạnh giới
trong đói nghèo trước cả lớp, sau đó sẽ là phiên thảo luận nhóm về
những vấn đề được nêu ra ở trên.
I. ĐỊNH NGHĨA VÀ ĐO lườNG
ĐÓI NGHÈO
Mục tiêu: giúp học viên hiểu được định nghĩa và thước đo đói nghèo trong
thu nhập và tiêu dùng.
A. ĐÓI NGHÈO: mộT kHáI NIỆm pHức Tạp
A. Đói nghèo là một khái niệm đa chiều vừa dễ và vừa khó để định
nghĩa. Đói nghèo thường được mô tả như một tình trạng theo đó
những cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng thiếu các nguồn lực để
tạo ra những nguồn thu nhập có thể duy trì mức tiêu dùng đủ
đáp ứng các nhu cầu cho một cuộc sống đầy đủ, sung túc. Theo
cách tiếp cận này, đói nghèo là tình trạng thiếu thốn vật chất.
B. Sự thiếu thốn vật chất còn có thể được thể hiện qua những nét
đặc trưng của những khu vực mà người nghèo thường sinh sống,
là những nơi thường thiếu điện, nước sạch hay nhà vệ sinh và
các dịch vụ khác. Tại các khu vực này, ngay cả một hộ gia đình có
điều kiện kinh tế chi trả cho những dịch vụ kể trên cũng có thể
gặp khó khăn về nguồn cung. Nói một cách khác, sự thiếu thốn
vật chất còn thể hiện ở những khía cạnh về địa lý.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Sáng kiến quản lý về giới và chính sách kinh tế ở châu Á – Thái Bình Dương: Giới và đói nghèo
ác tập quán tôn giáo, do kỳ thị và phân biệt đối xử, do ở nông thôn hay thành thị, do tham nhũng, do gia đình trị hay quản trị yếu kém, và do thiếu năng lực chính trị và bệnh quan liêu. 635 B. NHữNG TươNG Tác BêN TrONG Hộ GIA ĐìNH A. Định nghĩa về đói nghèo ở mức độ hộ gia đình có nghĩa các nguồn thu nhập được gộp lại và phân phối đều trong gia đình. Hầu hết các định nghĩa về đói nghèo đều bỏ qua các yếu tố trong nội bộ gia đình. Trong rất nhiều xã hội, đàn ông thường kiểm soát toàn bộ hay có tiếng nói quan trọng hơn trong phân phối thu nhập và chi tiêu trong gia đình. Điều này có nghĩa một hộ gia đình được phân loại là không nghèo có thể có sự phân chia nguồn lực rất không công bằng giữa các thành viên; những hộ không nghèo có thể có những thành viên nghèo (xem bảng 4 và 5). Điều này có thể ảnh hưởng tới sự phát triển con người trong một gia đình với những hậu quả lâu dài. Ví dụ như, nếu đàn ông kiểm soát chi tiêu, thì những khoản chi cho con cái có thể bị giảm và chỉ được bù đắp một phần từ các công việc không được trả lương. B. Khi phụ nữ làm các công việc có lương, điều này có thể ảnh hưởng tới các tương tác trong nội bộ gia đình. Phụ nữ kiểm soát thu nhập của chính mình từ việc làm có lương có thể ảnh hưởng tới mô hình chi tiêu trong hộ gia đình. Từ lâu đã thành lệ đó là phụ nữ có thu nhập thường có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho các nhu yếu phẩm trong gia đình và con cái, trong khi đàn ông kiểm soát thu nhập thường có xu hướng tiêu nhiều vào đồ dùng dành cho đàn ông. Tự chủ đầy đủ về mặt kinh tế xuất phát từ việc làm có thu nhập có thể giúp người phụ nữ có nhiều lựa chọn hơn để thoát khỏi những hoàn cảnh gia đình không mong muốn. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, phụ nữ không được kiểm soát thu nhập mà họ kiếm được, và sự thiếu kiểm soát này ảnh hưởng tới cách thức chi tiêu trong gia đình. Nó cũng có thể gây ra tình trạng các công việc có lương càng củng cố thêm sự bất bình đẳng giới. 36 Không thể giả định rằng được tiếp cận với việc làm có thu nhập sẽ thay đổi các tương tác về giới, vốn là một phần trong cấu trúc hộ gia đình, đồng thời là sự phân phối quyền lực giữa các thành viên nam và nữ trong gia đình. VAI Trò củA cHÍNH sácH Xã HộI VÀ kINH Tế BÀI TẬP 4 Mục tiêu: nhằm khuyến khích học viên chia sẻ kinh nghiệm bản thân về các tương tác giữa giới và đói nghèo. Học viên được yêu cầu suy nghĩ về kinh nghiệm của bản thân về các tương tác giữa giới và đói nghèo thông qua các câu hỏi sau đây: 1. Học viên đánh giá sự nữ hoá đói nghèo ở quốc gia hay khu vực mà họ sinh sống hay làm việc ở mức độ nào? Bằng chứng minh họa sự nữ hoá đói nghèo? 2. Những người thuộc giới tính thứ ba trải nghiệm về đói nghèo như thế nào? Có tương đồng với trải nghiệm của phụ nữ không, hay thực sự khác biệt? 3. Học viên đánh giá những tương tác trong nội bộ hộ gia đình tác động tới tình trạng đói nghèo của các cá nhân tại các quốc gia hay vũng lãnh thổ họ đang làm việc ở mức độ nào? 4. Có bằng chứng có sẵn nào chứng minh cho quan điểm của học viên không? 637 IV. XOá ĐÓI GIẢm NGHÈO VÀ GIỚI: VẤN Đề VÀ các YếU Tố Tác ĐộNG Mục tiêu: nhằm giúp học viên xây dựng những khuyến nghị chính sách đối với các quá trình đói nghèo trong bối cảnh có các tương tác về giới. A. TăNG TrưởNG kINH Tế VÀ XOá ĐÓI GIẢm NGHÈO A. Trong khi tăng trưởng kinh tế không phải là điều kiện đủ để xoá đói giảm nghèo, thì điều kiện cần của xoá đói giảm nghèo là hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những động lực tăng trưởng được tìm hiểu trong Học phần 7 về Giới và Kinh tế học Vĩ mô. B. Nguồn việc làm chủ yếu được ghi nhận trong SNA ở Châu Á và Thái Bình Dương là từ nông nghiệp. Và nơi định cư chủ yếu của người nghèo thuộc Châu Á và Thái Bình Dương là tại các vùng nông thôn. Tuy nhiên có thể cải thiện quá trình sản xuất và năng suất nông nghiệp ở khu vực này. Có một thách thức hiển nhiên là: làm sao để đầu tư một cách chiến lược vào một lĩnh vực nơi những công nhân hay sản phẩm đầu ra không được tính đến tương xứng trong các hoạt động kinh tế và việc làm, hay nơi mà nền sản xuất này không được công nhận một cách đầy đủ trong mối quan hệ phức tạp của nó với các ngành khác. Về mặt này, không ngạc nhiên khi thấy thúc đẩy xuất khẩu nông nghiệp thường gây ra tình trạng thiếu lương thực ở khu vực Châu Á và Thái Bình Dương. C. Các bằng chứng đã chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế xuất phát từ hoạt động nông nghiệp có tác động lớn hơn đối với xoá đói giảm nghèo so với sự tăng trưởng kinh tế xuất phát từ các hoạt động phi nông nghiệp. Vì vậy, có vẻ như điều kiện cần của xoá đói giảm nghèo ở một số nơi của Châu Á – Thái Bình Dương là hỗ trợ tăng trưởng nông nghiệp. Về phương diện này, cần phải tính đến các 38 tác động của biến đổi khí hậu khi xem xét các chiến lược khả thi nhằm thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp. D. Tăng trưởng kinh tế không thể được coi là trung lập về giới. Tác động của tăng trưởng kinh tế và nông nghiệp lên sự vận động của nghèo đói xét theo khía cạnh giới phụ thuộc vào cấu trúc hộ gia đình và sự tương tác trong nội bộ gia đình, việc phân chia tài sản, phân công các công việc không được trả lương và phân chia thu nhập, tác động của tất cả các yếu tố trên đối với các cơ hội việc làm, cũng như cơ chế an sinh xã hội trong gia đình, cộng đồng và chính phủ. Những quá trình này được tìm hiểu trong Học phần 7 về Giới và Kinh tế học Vĩ mô. E. Một phần giải pháp xóa đói giảm nghèo nên được dành để xem xét các biện pháp đầu tư ngân sách để giảm khối lượng công việc không được trả công, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các công việc tự cung tự cấp có lương hay không lương, hay làm việc trong lĩnh vực phi chính thức, hay làm việc trong ngành sản xuất và dịch vụ. Tuy nhiên, nếu không có những thay đổi lớn trong tập quán văn hoá và truyền thống trọng nam, thì các khoản đầu tư này sẽ không đem lại bất kỳ thay đổi rõ rệt nào. Những khoản đầu tư như vậy sẽ không hiệu quả nếu các vấn đề lớn trong chính sách không được giải quyết. F. Chính vì vậy, các can thiệp chính sách được xây dựng nhằm tăng cơ hội việc làm cho phụ nữ trước hết cần nỗ lực để giảm hay phân bổ lại khối lượng việc làm không được trả lương trong gia đình, cộng đồng và chính phủ. Và điều này cần được thực hiện cùng với những thay đổi trong các điều khoản của luật, chính sách và các tập quán có tính phân biệt đối xử tại mỗi quốc gia. G. Tuy nhiên, sự suy giảm trong khối lượng công việc không được trả công sẽ không có lợi cho xã hội nếu nó gây ra sự suy giảm của toàn xã hội bởi vẫn cần phải cân nhắc những lợi ích tích cực từ các công việc không được trả công này, như đã thảo luận trong Học phần 1 về Giới và Kinh tế. Các chính sách nên được xây dựng để đảm bảo rằng cắt giảm khối lượng công việc không được trả công sẽ không gây ra suy giảm lợi ích từ những công việc này của toàn xã hội. 639 B. VIỆc lÀm VÀ ĐÓI NGHÈO A. Sức lao động là một yếu tố sản xuất mà hầu hết các hộ gia đình nghèo đều sở hữu một cách tương đối dồi dào, trừ khi bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hay bị khuyết tật hoặc bị bệnh nào đó. Tăng nguồn thu của lực lượng lao động này bằng cách tăng các cơ hội việc làm, di cư lao động và các điều kiện công việc sẽ giúp làm giảm tình trạng đói nghèo trong thu nhập và tiêu dùng, đồng thời giải quyết được vấn đề thiếu thốn vật chất – vấn đề cốt lõi trong việc tách biệt với xã hội và sự vận động của nghèo đói. Vì vậy, ở đây có một mối liên hệ mật thiết giữa tình trạng việc làm và đói nghèo về thu nhập và tiêu dùng. B. Tuy nhiên, những thước đo đói nghèo trong thu nhập và tiêu dùng đã không tính tới những dịch vụ thiết yếu được cung cấp thông qua các công việc không được trả lương trong gia đình và cộng đồng. Những thước đo này thường chỉ tính tới một khoản phụ cấp cho việc sản xuất tại nhà một số hàng hoá nhất định, đặc biệt là lương thực, mà không tính tới những giá trị của những hàng hoá và dịch vụ thiết yếu được những công việc không được trả lương trong gia đình và cộng đồng cung cấp. Những thước đo này cũng không tính tới những khía cạnh quan trọng chẳng hạn như các hợp tác xã ngư nghiệp, lâm nghiệp hay nông nghiệp tại Thái Bình Dương. Mô hình ‘tăng trưởng’ cho rằng tất các cộng đồng này đều sẽ giàu có hơn nếu đất đai được tư hữu hoá. C. Do vậy, nếu một chính sách được xây dựng nhằm tăng thời lượng dành cho các công việc trong SNA (hiển nhiên là trái với các hoạt động sản xuất trong SNA), và giảm thời lượng dành cho công việc không được trả công, thì tốt nhất là những thay đổi trong việc phân phối lao động này sẽ được được tính đến khi tính toán về hiệu quả của việc tái phân phối lao động trong nghèo đói nếu điều này vẫn đang được sử dụng để đo lường tăng trưởng. Bởi vì giảm lượng công việc không được trả công có thể có lợi cho nền kinh tế, nhưng không hẳn là cần thiết cho xã hội nếu sự cắt giảm này gây ra sự cắt giảm các dịch vụ chăm sóc, an ninh lương thực, hay một môi trường sạch hơn trong cộng đồng. 40 D. Vì vậy, cần nhắc lại một lần nữa là các chính sách nên được xây dựng để đảm bảo rằng việc cắt giảm khối lượng công việc không được trả lương sẽ không gây ra việc cắt giảm các dịch vụ trong cộng đồng. E. Trong nông nghiệp, việc làm thường được xác định dựa trên sự tiếp cận và kiểm soát những tài sản mà phụ nữ thường không được sở hữu một cách chắc chắn, mặc dù những mô hình hợp tác xã trong rất nhiều xã hội khiến cho việc sở hữu trở nên dễ dàng. Sự gia tăng sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp hay mua bán các sản phẩm nông nghiệp đòi hỏi phụ nữ phải có kiểm quyền soát nhiều hơn với đất cũng như các loại tài sản khác ngoài đất để làm sản xuất. c. GIỚI, VIỆc lÀm VÀ ĐÓI NGHÈO A. Học phần 5 (Việc làm và Thị trường Lao động) đã chứng minh rằng phụ nữ và những người thuộc giới thứ ba phải chịu thiệt thòi về các cơ hội việc làm. Hai nhóm này thường bị xếp làm các công việc có thu nhập thấp và thiếu ổn định. Ngay cả trong một công việc cụ thể nào đó mà cả đàn ông và phụ nữ cùng tham gia thì vẫn có những bằng chứng rõ ràng về khoảng cách trong thu nhập giữa hai giới. B. Khi biến đổi khí hậu xảy ra, các hoạt động tạo thu nhập cho phụ nữ như nông nghiệp và du lịch bị tác động nhiều hơn so với các ngành khác, điều này có thể tạo gây thêm những tác động tiêu cực lên việc làm của phụ nữ. C. Tuy nhiên, các dự đoán về tỷ lệ nghèo ở những phụ nữ có việc làm có thể thấp hơn dự đoán về tỷ lệ nghèo ở những nam giới có việc làm. Điều này xảy ra là do ở các hộ gia đình mà phụ nữ không tham gia vào thị trường lao động thì nguy cơ đói nghèo có thể cao hơn đối với cả nữ giới và nam giới. Do vậy, thu nhập của phụ nữ tạo ra một sự khác biệt cho dù hộ gia đình đó nghèo hay không, xét trên khía cạnh đói nghèo trong thu nhập và tiêu dùng. 641 D. Sự vận động của đói nghèo phụ thuộc rất nhiều vào thành phần hộ gia đình. Những hộ gia đình chỉ có một người kiếm tiền – ví dụ như bà mẹ đơn thân – phải đối mặt với rủi ro đói nghèo rất cao. Sự vận động này cũng phụ thuộc vào các mối tương tác trong gia đình – là một chức năng của cấu trúc gia đình. E. Mối quan hệ nhân quả giữa việc làm của phụ nữ và đói nghèo có thể hình dung theo các hướng sau: Đói nghèo có thể khiến phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động hoặc làm nhiều giờ hơn trong các công việc của SNA. Đồng thời, thu nhập từ việc làm của phụ nữ có thể làm giảm phạm vi ảnh hưởng và chiều sâu của đói nghèo trong thu nhập và tiêu dùng. Phụ nữ và đàn ông đều tham gia vào lĩnh vực sản xuất tự cung tự cấp đồng nghĩa với việc gia đình và cộng đồng đó có ít tiền mặt, nhưng trong số đó thì chỉ có một vài chỉ số bị gắn liền với đói nghèo. F. Do vậy, mối quan hệ giữa việc làm của phụ nữ với đói nghèo khá phức tạp. Cấu trúc hộ gia đình và các mối tương tác giới trong gia đình là những yếu tố trung gian quan trọng trong việc tạo nên nên hiện tượng nữ hóa đói nghèo. d. ĐIềU cHỉNH kINH Tế, các cHIếN lược TrONG cHÍNH sácH XOá ĐÓI GIẢm NGHÈO VÀ GIỚI A. Phương tiện chủ yếu mà các tổ chức phát triển quốc tế, các đối tác song phương và các chính phủ nỗ lực tìm kiếm để giảm tình trạng đói nghèo là thông qua các biện pháp điều chỉnh kinh tế giúp nâng cao hiệu quả sản xuất như một điều kiện tiên quyết để tăng thu nhập. Tại một số quốc gia ở Châu Á như Băng-la-đét, In-đô-nê-xi-a, Pakistan, và Philippin, những nghiên cứu chiến lược về các hình thức xoá đói giảm nghèo (PRSPs) – được thực hiện một cách chi tiết trong Học phần 8 về Giới và các Chiến lược 42 Kinh tế Vĩ mô ở Châu Á và Thái Bình Dương - đã được xây dựng và triển khai thực hiện. B. Tuy nhiên, ở những nơi áp dụng các biện pháp này, PRSPs giải quyết đói nghèo bằng cách sử dụng chính sách kinh tế nhằm nâng cao thu nhập. Tương tự như vậy, ở các quốc gia đang điều chỉnh nền kinh tế của họ nhưng không áp dụng cách tiếp cận theo kiểu PRSP, người ta kỳ vọng việc xoá đói giảm nghèo sẽ được thực hiện nhờ kết quả của việc tăng số lượng việc làm có lương. Nếu việc điều chỉnh kinh tế và/hoặc PRSPs thành công trong việc tăng thời gian phụ nữ dành cho các công việc được trả lương, thì thời gian cho những việc không được trả lương trong gia đình và cộng đồng sẽ ít đi, nhưng thường thì tổng thời gian dành cho công việc sẽ tăng lên. C. Giảm bớt lượng công việc không được trả lương có thể có lợi cho tăng trưởng, nhưng không hẳn đã có lợi cho xã hội nếu việc giảm bớt này không đi cùng với các cơ chế an sinh xã hội giúp thay thế khối lượng công việc này. Về cơ bản, điều chỉnh kinh tế và/hoặc PRSPs không gắn liền với việc xây dựng một cơ chế an sinh xã hội cụ thể để đảm bảo tính bền vững, ví dụ một tỷ lệ thích hợp dành cho các dịch vụ chăm sóc, an ninh lương thực, chăm sóc môi trường và giám sát sinh sản. Do vậy, những chiến lược trong chính sách xoá đói giảm nghèo hiện tại, bất chấp những cam kết hùng hồn về bình đẳng giới, đã thất bại trong việc đưa những khía cạnh giới trong quá trình vận động của nền kinh tế vào trong các cách tiếp cận và khuôn khổ của mình. Do vậy, những chính sách trên vẫn không mang tính giới. D. PRSPs vẫn luôn luôn không tính tới những người thuộc giới tính thứ ba. 643 TÀI lIỆU THAm kHẢO Chant, S. 2003. New Contributions to the Analysis of Poverty: Methodological and Conceptual Challenges to Understanding Poverty from a Gender Perspective. Santiago: Work and Development Unit, Economic Commission for Latin America and the Caribbean (ECLAC). Razavi, S. 1999. ‘Gendered Poverty and Well-Being: Introduction.’ Development and Change. Volume 30, No. 3, Pages 409–433. Sen, A. 1992. Inequality Reexamined. Cambridge, MA: Harvard University Press. 44 Th án g 2, 2 01 4 Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc 25-29 Phan Bội Châu Hà Nội, Việt Nam Tel: (84 4) 3942 1495 Fax: (84 4) 3942 2267 Email: registry.vn@undp.org www.undp.org.vn
File đính kèm:
- tai_lieu_sang_kien_quan_ly_ve_gioi_va_chinh_sach_kinh_te_o_c.pdf