Tác động của chia sẻ chi phí trong bảo hiểm y tế tại Việt Nam
Tác động của chia sẻ chi phí đối với nhu cầu chăm sóc sức khoẻ (bảo hiểm y tế) mặc dù đã được ghi
nhận tại nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển, nhưng đối với các nước đang phát triển, các nghiên
cứu trong lĩnh vực này không nhiều. Bài báo này phân tích tác động của việc thay đổi tỷ lệ đóng bảo hiểm
y tế tự nguyện ở Việt Nam (trước và sau khi Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008 có
hiệu lực ngày 01/7/2009) bằng cách sử dụng bộ số liệu kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2006,
2017 của Tổng cục Thống kê. Để đánh giá sự thay đổi này, bài báo sử dụng cách tiếp cận khác biệt trong
hồi quy tuyến tính để kiểm tra xem quy định mới về tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện có làm giảm nhu
cầu về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của người dân hay không. Kết quả phân tích cho thấy, sự thay đổi
này không có ý nghĩa thống kê đáng kể về số lượng người dân tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tuy
nhiên, kết quả cũng cho thấy những người dưới 18 tuổi hoặc tại các hộ gia đình có thu nhập thấp, nhu
cầu chăm sóc sức khỏe giảm sau khi tăng tỷ lệ cùng chi trả lên 20% chi phí khám, chữa bệnh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của chia sẻ chi phí trong bảo hiểm y tế tại Việt Nam
động rõ rệt lên các ước tính. Cụ thể, nó làm giảm tác động của chi phí bảo hiểm đối với số lượng người tham gia điều trị ngoại trú. Ngoài ra, số lượng người tham gia VHI còn được thể hiện bằng số lần người bệnh sử dụng thẻ BHYT để thanh toán cho điều trị. Do vậy, cả hai kết quả các ước tính IV đều không có ý nghĩa thống kê đáng kể. Để xác định số người tham gia điều trị nội trú có ảnh hưởng không đáng kể đến phương trình ước lượng, tác giả đã đo số lần điều trị hoặc số lần thẻ BHYT được sử dụng cho việc thanh toán quá trình điều trị của người bệnh tại các cơ sở y tế. Kết quả ước lượng cho thấy những người tham gia chương trình VHI có tác động không đáng kể về mặt thống kê đến số lần điều trị. Tuy nhiên, cũng lý rằng ước tính OLS đã được đẩy lên và điều này phù hợp với ước tính tích cực về mối tương quan (Rho) giữa các lỗi trong phương trình xử lý và kết quả. Kích thước của độ lệch không đáng kể nhưng tỷ lệ khả nĕng ở dưới cùng của ước tính DID chỉ ra rằng trong hầu hết các trường hợp, không thể bác bỏ giả thuyết các lỗi không tương thích trong mô hình. Trong trường hợp này, một mối tương quan tích cực và có ý nghĩa giữa thay đổi sai số trong phương trình kết quả và sai số trong phương trình xử lý được quan sát. Để đánh giá sự thay đổi trong ước tính liên quan đến việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong các hồi quy, tác giả đã kiểm tra độ bền của các biến bằng cách sử dụng phép thử tỷ lệ khả nĕng sinh kế (LR) của người dân. Các kết quả trong bảng 2 cho thấy các biến này có tác động mạnh; đồng thời, tác giả kiểm tra giả định rằng các biến không tương quan với các lỗi trong phương trình (2) bằng cách sử dụng thử nghiệm nhận dạng. Trong mọi trường hợp, kiểm tra thống kê Chi bình phương (Chi squared 1) trong bảng 2 cho thấy, không thể bác bỏ giả thuyết lỗi không tương thích với các biến. Ngoài ra, tác giả sử dụng tỷ lệ người dân trong xã tham gia chương trình VHI là biến duy nhất, kết quả gần giống như khi sử dụng hai biến trên. Sau đó, tác giả triển khai bộ ước lượng hai giai đoạn và so sánh các kết quả với các kết quả thu được từ trình ước lượng ban đầu và đều có ước tính gần như giống nhau. Tóm lại, tác giả không tìm thấy tác động dự kiến tiêu cực của việc tĕng quy định về chi phí cùng chi trả trong khám chữa bệnh đối với người tham gia BHYT với số lượng người được chĕm sóc sức khỏe theo yêu cầu của các cá nhân người tham gia VHI. 5.3. Biến thể giữa các nhóm phụ Tuy nhiên, tính không đồng nhất để đáp ứng với chi phí bảo hiểm bỏ ra và tình trạng sức khỏe của cá nhân là khó đo lường, do vậy, có hai khả nĕng có thể xảy ra là những người có sức khỏe kém hơn có thể nhạy cảm về giá hơn vì các hiệu ứng thu nhập tiềm nĕng lớn hơn hoặc những người có sức khỏe kém có thể ít nhạy cảm về giá vì họ có thể coi trọng sức khỏe hơn. Kết quả trong bảng 3 - Panel 1 chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể trong phản ứng với sự gia tĕng chi phí bảo hiểm (đối với cả điều trị ngoại trú và điều trị nội trú) và tình trạng bệnh (đối với điều trị nội trú). Tuy nhiên, có một số khác biệt đáng kể trong phản ứng khi tình trạng sức khỏe được đo bằng cách có bất kỳ bệnh nào để điều trị ngoại trú (bảng 4 - Panel 2). Đặc biệt, những người có sức khỏe tốt hơn (tức là không có bệnh) dường như giảm số lượng điều trị ngoại trú của họ bằng 0,13 trong khi những người có sức khỏe kém thì không. Sự khác biệt này không có ý nghĩa ở mức 10%. Một xu hướng tương tự khi kết quả được đo bằng số lần sử dụng thẻ BHYT để thanh toán cho điều trị ngoại trú. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 68 Tạp chí Nghiên cứu khoa học,Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019 Bảng 3. Tác động của việc tĕng đồng bảo hiểm lên việc sử dụng dịch vụ chĕm sóc sức khỏe, theo tình trạng sức khỏe và giới tính Điều trị ngoại trú Điều trị nội trú FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD Panel 1. Theo bệnh nặng Không bệnh Tất cả các bệnh Không bệnh Tất cả các bệnh A DID -0.191 -0.29* -0.112 -2.521 0.031 -0.066 1.021 -3.642 (-1.12) (-1.68) (-0.15) (-0.88) (0.22) (-0.31) (1.91) (-1.19) Rho 0.027 0.29 0.03 0.58 P value 0.38 0.21 0.39 0.00 B DID 0.013 -0.039 0.213 0.207 -0.001 -0.021 0.192 0.113 (0.75) (-0.79) (1.37) (1.41) (-0.17) (-0.39) (1.08) (0.67) Rho 0.89 0.00 0.02 0.04 P value 0.11 0.93 0.57 0.59 Observations 3509 668 3509 668 3509 668 3509 668 Panel 2. Theo bệnh nhẹ Không bệnh Tất cả các bệnh Không bệnh Tất cả các bệnh A DID -0.129* -0.118 -0.062 -0.201 0.019 0.027 0.091 -0.021 (-171) (-0.02) (-0.20) (-0.29) (1.01) (1.01) (1.01) (0.19) Rho -0.05 0.01 -0.29 0.09 P value 0.61 0.85 0.59 0.11 B DID -0.144** 0.410 0.583** -0.399 0.009 0.015 0.057 -0.041 (-2.21) (0.69) (2.11) (-0.197) (0.58) (0.65) (1.32) (-0.40) Rho -0.31 0.13 -0.01 0.09 P value 0.01 0.06 0.75 0.11 Observations 1992 2.185 1992 2.185 1992 2.185 1992 2.185 Panel 3. Theo giới tính Nam Nữ Nam Nữ A DID -0.213 -0.123 -0.149 -0.812 0.071** -0.152 0.014 0.051 (-0.95) (-0.31) (-0.58) (-1.00) (1.99) (-1.03) (0.43) (1.27) Rho -0.01 0.13 0.19 -0.04 P value 0.82 0.09 0.00 0.42 B DID 0.113 -0.182 0.211 -1.25 0.066** -0.163 -0.011 0.025 (0.81) (-0.55) (1.17) (-0.28) (1.98) (-0.58) (-0.33) (0.23) Rho 0.08 0.25 0.23 -0.02 P value 0.01 0.00 0.23 Observations 1721 1721 2456 2456 1721 1721 2456 2456 Kết quả bảng 3 - Panel 3 cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về giới tính đối với điều trị ngoại trú khi gia tĕng chi phí BHYT. Ngược lại, có sự khác biệt đáng kể về tác động của chi phí bảo hiểm theo giới tính đối với bệnh nhân tham gia điều trị nội trú. Điều này cho thấy có ý nghĩa thống kê của mối tương quan giữa phương trình điều trị và kết quả cho thấy kết quả IV-FD. Ngoài ra, kết quả bảng 4 - Panel 1 còn cho thấy rằng khi có chung một quyền lợi trong BHYT thì những người dưới 18 tuổi có nhiều khả nĕng giảm Bảng 4: Tác động của việc tĕng đồng bảo hiểm lên việc sử dụng dịch vụ chĕm sóc sức khỏe, theo độ tuổi và thu nhập Panel 1. Theo tuổi Điều trị ngoại trú Điều trị nội trú FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD Tuổi 55 Tuổi 55 A DID -0.214** -0.613** -0.310 -0.345 0.079 0.671 0.019 0.041 0.086* -0.021 0.095 0.132 (-2.19) (-2.97) (-0.71) (-0.81) (0.11) (0.61) (1.13) (1.01) (1.82) (-0.39) (0.59) (0.97) Rho 0.14 0.00 -0.04 -0.03 0.11 -0.03 P value 0.00 0.89 0.56 0.61 0.09 0.78 B DID -0.031 -0.249* 0.156 0.110 1.159 1.134 0.015 -0.421** 0.057 0.013 0.019 -0.000 (-0.37) (-1.92) (0.67) (0.25) (1.56) (1.06) (0.72) (-2.15) (1.41) (0.19) (0.13) (-0.00) số lần điều trị hơn là những người lớn tuổi hơn. Đặc biệt, những người dưới 18 tuổi đã giảm số lần điều trị ngoại trú của họ xuống 0,6 (kết quả FD-IV) trong khi những người lớn tuổi thì không. Những người dưới 18 tuổi cũng giảm tần suất sử dụng thẻ BHYT để thanh toán các chi phí khám, chữa bệnh (điều trị ngoại trú là 0,3, FD-IV và điều trị nội trú là 0,4, FD-IV) trong khi những người lớn tuổi thì không. Phát hiện này phù hợp với với nghiên cứu của Bộ Y tế khi đánh giá những người lớn tuổi ít có khả nĕng chia sẻ chi phí trong khám, chữa bệnh hơn người trẻ tuổi. NGÀNH KINH TẾ 69Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019 Panel 1. Theo tuổi Điều trị ngoại trú Điều trị nội trú FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD FD IV-FD Tuổi 55 Tuổi 55 Rho 0.21 0.01 0.00 0.81 0.07 0.01 P value 0.02 0.78 0.91 0.00 0.41 0.85 Observations 1670 1670 1879 1879 628 628 1670 1670 1879 1879 628 628 Panel 2. Theo thu nhập Thấp Trung bình Cao Thấp Trung bình Cao A DID -0.658** -0.893** 0.201 0.259 0.62 0.607 -0.002 0.007 0.095** -0.016 0.123* 0.125* (-2.51) (-1.97) (0.61) (0.315) (0.91) (1.02) (-0.06) (0.12) (1.97) (-0.86) (1.87) (1.86) Rho 0.59 -0.10 -0.00 -0.19 0.18 0.02 P value 0.21 0.98 0.82 0.81 0.35 0.97 B DID -0.129 -0.918** 0.109 0.207 1.108** 1.214** 0.011 0.013 0.015 -0.610* 0.130* 0.103* (-0.95) (-2.93) (0.35) (0.41) (2.23) (2.09) (0.17) (0.21) (0.04) (-1.78) (1.69) (1.83) Rho 0.21 -0.03 0.00 -0.00 0.63 -0.02 P value 0.01 0.79 0.91 0.89 0.02 0.89 Observations 1796 1796 1.295 1.295 1.086 1.086 1796 1796 1.295 1.295 1.086 1.086 Ngoài ra, kết quả trong bảng 4 - Panel 2 cũng cho thấy một số khác biệt đáng kể về tác động của việc tĕng chia sẻ chi phí bảo hiểm lên nhu cầu chĕm sóc sức khỏe của các nhóm thu nhập (các nhóm được chia theo mức chi tiêu bình quân đầu người). So với CHI được bảo hiểm, bảo hiểm VHI giảm số lượng điều trị ngoại trú của họ khoảng 0,9 sau khi mức chia sẻ chi phí bảo hiểm nếu họ ở nhóm thu nhập thấp nhất. Tương tự, họ cũng giảm số lần sử dụng thẻ BHYT của họ để thanh toán tiền cho điều trị ngoại trú một. Ngược lại, kết quả phân tích còn cho thấy sự gia tĕng về số lần các quyền lợi bảo hiểm y tế được sử dụng cho người được bảo hiểm theo VHI ở các nhóm thu nhập cao hơn. Như vậy, có thể khẳng định sự khác biệt trong phản ứng với mức gia tĕng chia sẻ chi phí trong khám chữa bệnh có tham gia BHYT có tác động về mặt tài chính lớn đối với các cá nhân có thu nhập thấp. 6. KẾT LUẬN Bài báo đã xem xét tác động của những người tham gia chương trình VHI phải chia sẻ 20% (bảo hiểm thanh toán tối đa 80%) chi phí khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế. Nghiên cứu áp dụng biến công cụ (khác biệt) phù hợp cho dữ liệu VHLSS 2006 và 2017 bằng cách sử dụng số lượng người tham gia bảo hiểm y tế theo chương trình bắt buộc làm nhóm kiểm soát. Kết quả cho thấy không có sự giảm đáng kể nhu cầu chĕm sóc sức khỏe cho nhóm tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện (phát hiện này cho cả điều trị ngoại trú và điều trị nội trú). Kết quả phân tích cũng cho thấy việc quy định người tham gia bảo hiểm y tế phải chi trả 20% chi phí khám, chữa bệnh không có tác động đối với nhu cầu chĕm sóc sức khỏe của người dân. Theo phân nhóm, tác giả nhận thấy sự khác biệt không đáng kể trong phản ứng về nhu cầu chĕm sóc sức khỏe của nam và nữ. Tuy nhiên, kết quả phân tíchcũng thấy rằng những người dưới 18 tuổi hoặc các hộ gia đình có thu nhập thấp đã giảm sử dụng dịch vụ chĕm sóc sức khỏe của họ sau khi tĕng tỷ lệ người bệnh đồng chi trả khi sử dụng dịch vụ chĕm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế. Quy định người tham gia bảo hiểm y tế phải chi trả 20% chi phí khám, chữa bệnh không làm giảm số lượng người yêu cầu được chĕm sóc y tế là không phù hợp ở các nước phát triển. Mặc dù vậy, quy định này lại phù hợp với điều kiện chĕm sóc sức khỏe ở các nước đang phát triển, mọi người chỉ đi khám bác sĩ khi nó rất cần thiết [8]. Sự thiếu tác động này cũng có thể là do sự hiện diện của các chi phí tiền tệ và phi tiền tệ khác liên quan đến điều trị y tế ở các nước đang phát triển như chi phí các dịch vụ y tế không nằm trong chính sách do tổ chức bảo hiểm chi trả, nhưng người sử dụng dịch vụ y tế vẫn phải thanh toán. Điều này là đúng đối với Việt Nam, vì đối với những người được điều trị miễn phí (thuộc nhóm tham gia bảo hiểm bắt buộc) trong nĕm 2017 vẫn phải thanh toán hơn một nửa tổng chi phí điều trị. Với việc đồng chi trả 20% chi phí trong quá trình sử dụng dịch vụ y tế đã tác động đến sự thay đổi nhỏ so với tổng chi phí người sử dụng phải bỏ ra và khó tạo nên sự thay đổi lớn trong thói quen tiêu dùng của người Việt Nam. Ngoài ra, do hệ thống thiếu chính sách chĕm sóc sức khỏe đầy đủ, đặc biệt là ở mức độ cao và các cơ sở y tế không đáp ứng được nhu cầu chĕm sóc sức khỏe của người dân cũng có thể giải thích sự tác động không đáng kể của việc người dân sử dụng bảo hiểm y tế cho nhu cầu chĕm sóc sức khỏe của mình. Kết quả phân tích phù hợp với tình trạng của quỹ y tế thâm hụt hiện nay và phù hợp với các nghiên cứu khác về tác động của phí sử dụng đối với nhu cầu chĕm sóc khỏe ở các nước đang phát triển. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 70 Tạp chí Nghiên cứu khoa học,Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019 [6] Ngân hàng Thế giới (2015), Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, 7-2015, Hà Nội. [7] Nguyen (2012), The impact of voluntary health insurance on health care tilization and out-of- pocket payments: New evidence for Vietnam. Health Economics 21, 946-966. [8] O'Donnell (2007), Access to health care in developing countries: Breaking down demandside barriers, Cadernos de saude publica/Ministerio da Saude, Fundacao Oswaldo Cruz,Escola Nacional de Saude Publica 23, 2820-2834. [9] Tổng cục Thống kê (2006, 2017), Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam, Hà Nội. [10] Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2013), Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật bảo hiểm y tế giai đoạn 2009- 2012, Hà Nội. [11] Van Dijk, C.E., van den Berg, B., Verheij, R.A., Spreeuwenberg, P., Groenewegen, P.P., de Bakker, D.H (2013), Moral hazard and supplier- induced demand: Empirical evidence in general practice. Health Economics 22, 340-352. [12] Winkelmann (2004), Health care reform and the number of doctor visits - an conometric analysis. Journal of Applied Econometrics 19, 455-472. Những phát hiện trong quá trình phân tích và một số nghiên cứu khác cho thấy chia sẻ chi phí là một công cụ tối ưu Chính phủ điều chỉnh chính sách an sinh xã hội, ngoài ra nó còn có ý nghĩa quan trọng trong chính sách tài chính ở dịch vụ chĕm sóc sức khỏe. Do đó, thiết lập các quy định đồng thanh toán theo khả nĕng chi trả là một cách để mở rộng quỹ bảo hiểm y tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Y tế (2011), Báo cáo kết quả nghiên cứu khả nĕng thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, Hà Nội. [2] Duarte (2012), Price elasticity of expenditure across health care services, Journal of Health Economics 31, 824-841. [3] Ha Nguyen and Luke B. Connelly (2017), Cost in health insurance and its impact in a developing country, MPRA Paper No. 76399. [4] Đào Lan Hương và cộng sự (2014), Tiến tới bao phủ bảo hiểm y tế ở Việt Nam: Đánh giá và giải pháp, The World Bank, Washington DC 20433. [5] can-quan-ly-hieu-qua-quy-bao-hiem-y-te.html THÔNG TIN TÁC GIẢ Nguyễn Minh Tuấn - Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo, nghiên cứu): + Nĕm 1999: Tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Quản lý kinh tế và xã hội, Tài chính - Ngân hàng + Nĕm 2005: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh + Nĕm 2015: Tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Tài chính - Ngân hàng - Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên, Trưởng Phòng Tổ chức - Hành chính, Trưởng Khoa Kinh tế - Lĩnh vực quan tâm: kinh tế, xã hội - Điện thoại: 0912795162 Phạm Thị Hồng Hoa - Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo, nghiên cứu): + Nĕm 2000: Tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Chính trị + Nĕm 2005: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh + Nĕm 2017: Tốt nghiệp Tiến sĩ kinh tế chính trị quốc tế - Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên, Trưởng Khoa Giáo dục chính trị và thể chất - Lĩnh vực quan tâm: kinh tế, xã hội - Điện thoại: 0384080136
File đính kèm:
- tac_dong_cua_chia_se_chi_phi_trong_bao_hiem_y_te_tai_viet_na.pdf