Socrates và tư tưởng độc đáo của ông

Socrates là hiện tượng đặc biệt trong

lịch sử triết học, đặc biệt ở thành

phần xuất thân, ở lối sống, phương thức

sinh hoạt và ở phong cách tư duy. Ngay

cả cái chết của ông cũng tạo nguồn cảm

hứng cho thi ca và hội họa. Cái chết đó

đã hóa thân vào sự tồn tại khác để tiếp

tục cảm hóa lòng người bằng sự dũng

cảm và lòng cao thượng của một nhà

thông thái không bị khuất phục trước

bất cứ một cám dỗ vật chất và thế lực

cường quyền nào.

 

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông trang 1

Trang 1

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông trang 2

Trang 2

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông trang 3

Trang 3

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông trang 4

Trang 4

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông trang 5

Trang 5

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông trang 6

Trang 6

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3940
Bạn đang xem tài liệu "Socrates và tư tưởng độc đáo của ông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Socrates và tư tưởng độc đáo của ông

Socrates và tư tưởng độc đáo của ông
cuối cùng của 
Socrates đ−ợc ghi nhận trong Apology 
của Plato - nhân chứng sống hay ng−ời 
có mặt tại phiên tòa chỉ rõ sự dối trá của 
những kẻ buộc tội ông: “Th−a các công 
dân Athens, tôi không biết quý vị đã bị 
ảnh h−ởng thế nào bởi các ng−ời tố cáo 
tôi; nh−ng tôi biết rằng họ hầu nh− 
muốn làm cho tôi quên đi mình là ai - 
họ nói một cách quá thuyết phục, nh−ng 
họ chẳng nói đ−ợc một lời sự thật. Thế 
nh−ng trong số rất nhiều lời dối trá họ 
nói ra, có một lời làm tôi sửng sốt, đó là 
khi họ nói quý vị phải đề cao cảnh giác 
và đừng để mình bị lừa dối bởi sức 
mạnh sự hùng biện của tôi chính là 
sức mạnh của sự thật Khi họ nói rằng 
Socrates, một con ng−ời khôn ngoan, là 
ng−ời truy tìm trời cao và đất sâu, và có 
tài thay trắng đổi đen. Những con ng−ời 
gieo rắc các câu chuyện nh− thế là 
những kẻ vu khống mà tôi rất sợ. Tôi 
xin tóm tắt lời họ nh− sau: Socrates là 
một kẻ làm điều ác, một con ng−ời kỳ lạ, 
truy tìm những sự vật d−ới đất và trên 
trời, và giỏi thay trắng đổi đen; và hắn 
đã dạy những điều đó cho ng−ời khác” 
(8, tr.22-24). Socrates buộc tội những kẻ 
vu cáo ông nh− Meletus, Anytus, Lycon, 
cho bọn họ là những ng−ời vô liêm sỉ. 
Ông cho rằng, bản thân ông là sứ giả 
hòa bình, là món quà mà th−ợng đế 
tặng cho đất n−ớc Hy Lạp, ng−ời có sứ 
mạng lịch sử kích thích, thuyết phục, 
sửa lỗi cho mọi ng−ời. Ông không có tội 
tình gì ngoài việc suốt đời bỏ qua lợi ích 
riêng t− để truy tìm một ng−ời khôn 
ngoan hơn nhằm bác bỏ lời sấm. 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2012 40
Khi ng−ời ta dâng chén thuốc độc 
cho Socrates, ông đã hài h−ớc hỏi có cần 
phải chia phần dâng thần linh không ? 
Câu trả lời không kém phần trào lộng là 
thuốc độc chỉ pha đủ cho mình ông thôi. 
Ông trầm tĩnh tr−ớc cái chết đến nỗi có 
ng−ời cho rằng, không phải thuốc độc 
đ−ợc dâng lên cho Socrates mà chính 
Socrates đã tự dâng mình cho thuốc độc 
(xem thêm: 8, tr.42). Sau khi uống độc 
d−ợc, ông vẫn đ−ợc ng−ời hầu dẫn đi dạo 
cho đến khi b−ớc chân trở nên nặng nề và 
gục xuống. Thấy vậy, ng−ời quản lý độc 
d−ợc véo thử vào chân, Socrates không 
còn cảm giác gì ở chân nữa. Sự tê liệt dần 
dần lan khắp cơ thể cho đến khi độc d−ợc 
chạy vào tim. Tr−ớc khi tắt thở, Socrates 
vẫn không quên trăng trối với ng−ời bạn 
bằng những lời hài h−ớc: “Crito, tôi còn 
mắc nợ Asclepius một con gà trống, anh 
làm ơn trả giùm tôi đ−ợc không?”(*). Plato 
đã xúc động viết những dòng cuối: “Đó là 
kết cục của ng−ời bạn chúng ta, một con 
ng−ời tốt nhất, khôn ngoan nhất và 
chính trực nhất giữa những con ng−ời 
thời đại ông mà tôi đ−ợc biết” (8, tr.43) - 
đây có lẽ là lời bình phẩm ngắn gọn 
nh−ng đầy đủ và khách quan nhất về 
nhân vật huyền thoại triết học này. 
3. Biện chứng pháp hay nghệ thuật tranh biện 
Socrates 
Để thực hiện lời nguyền với thần 
linh là tìm ra một ng−ời khôn ngoan 
hơn mình, Socrates thực hiện cuộc hành 
trình gặp gỡ đủ mọi loại ng−ời để chất 
vấn. Việc chất vấn đối với ông không 
nhằm mục đích giáo huấn, khoe khoang 
tri thức mà chủ yếu là để khơi dậy nơi 
họ những tri thức tiềm ẩn. Do vậy, ông 
(*) Asclepius là thần chữa bệnh của ng−ời Hy Lạp. 
Những lời cuối cùng của Socrates hàm nghĩa: Cái 
chết là cách chữa bệnh duy nhất, tự do chân chính 
là việc linh hồn thoát ra khỏi thể xác. 
xây dựng một ph−ơng pháp đối thoại 
tích cực, hay ph−ơng pháp truy vấn, vặn 
hỏi, qua đó giúp mọi ng−ời tránh sự ngộ 
nhận (cho mình là ng−ời khôn ngoan 
nhất), v−ợt qua mọi sai lầm, định kiến cá 
nhân để xác định đúng bản chất của sự 
vật, rồi sau đó đi đến những việc làm 
đúng đắn hay điều thiện - một ph−ơng 
pháp đối thoại nh− vậy ng−ời đời sau gọi 
là biện chứng pháp Socrates (Socrates 
dialectics), ph−ơng pháp đó đ−ợc tiến 
hành bằng một thứ văn phong hài h−ớc 
thông qua bốn b−ớc cơ bản: 
B−ớc thứ nhất mang tính “mỉa mai” 
(Ironie), trào lộng hay phản chứng. Theo 
Socrates, trong đối thoại (dialogues), 
tr−ớc hết, ng−ời đối thoại phải biết hay 
cần phải tạo nên “tình huống có vấn đề”, 
tức là cần đặt lại đối với những vấn đề 
t−ởng chừng nh− đã rõ ràng từ tr−ớc. 
Tiếp đến là cần lập luận để dồn đối 
ph−ơng vào thế tự mâu thuẫn với chính 
mình, từ đó bản thân ng−ời bị chất vấn 
tự nhận ra sai lầm của mình và công 
nhận ý kiến của ng−ời chất vấn là đúng. 
Để thực hiện đ−ợc mục đích này thì chủ 
thể thực hiện đối thoại phải biết “mỉa 
mai” hay châm biếm, chọc tức đối ph−ơng. 
B−ớc thứ hai cần thực hiện là chủ 
thể đối thoại phải biết “đỡ đẻ” cho đối 
ph−ơng, nghĩa là giúp họ “đẻ” ra chân 
lý. Thuật ngữ “đỡ đẻ” (majeutique) lấy 
nguyên nghĩa đen của ngành y, tức 
hành động giúp cho ng−ời phụ nữ thai 
nghén sinh nở đ−ợc dễ dàng. Socrates 
dùng thuật ngữ này với nghĩa bóng, 
theo đó trách nhiệm của ng−ời chất vấn 
là giúp ng−ời bị chất vấn tìm ra lối 
thoát để đ−a họ đến chân lý hay “đẻ” ra 
suy t− mà họ đã thai nghén trong lòng 
nhằm tạo lập tri thức mới. Nếu không 
nh− vậy thì chắc hẳn mọi tri thức chỉ là 
tri thức tiềm ẩn trong đầu mà không 
Socrates và t− t−ởng độc đáo của ông 41
thoát ra đ−ợc bên ngoài để trở thành 
chân lý hay tri thức phổ quát. 
 B−ớc thứ ba có tính “quy nạp” 
(induction), tức chủ thể đối thoại cần 
phải đi từ việc phân tích các sự vật, hiện 
t−ợng đơn lẻ đến việc khái quát thành 
tri thức chung và nắm bắt bản chất vấn 
đề tranh luận. Socrates tìm kiếm ý niệm 
công bằng qua các hành vi gọi là công 
bằng, ý niệm đẹp qua các sự vật đ−ợc 
gọi là đẹp, ý niệm thiện qua những việc 
làm mà con ng−ời cho là tốt lành. Theo 
Socrates, những cái riêng nh− bông hoa 
có thể héo tàn, nh−ng cái đẹp mà những 
bông hoa đó đại diện thì còn mãi với 
thời gian trong tâm thức loài ng−ời. 
B−ớc thứ t−, khi đã có tri thức 
chung, chủ thể cần đi đến sự “định 
nghĩa” (definition), tức kết luận vấn đề 
một cách xác thực, nắm bắt bản chất các 
sự vật nh− chúng vốn có trong thực tế, 
xác định đúng bản chất của đối t−ợng 
nghiên cứu, đến đây vấn đề có thể kết 
luận, cuộc tranh luận kết thúc. Theo 
Socrates, định nghĩa là quá trình theo 
đó trí óc có thể phân biệt hoặc xếp hạng 
hai đối t−ợng t− duy: cái cụ thể cảm 
tính (bông hoa đẹp đang đặt trên bàn) 
và cái chung phổ quát (ý niệm đẹp mà 
trong đó bao hàm cả cái đẹp của bông 
hoa đang đặt trên bàn). Do vậy, không 
thể đồng nhất cái đẹp cụ thể với ý niệm 
đẹp nói chung. Qua khả năng định 
nghĩa, Socrates cho thấy, tri thức đích 
thực không phải là sự tra xét các sự vật, 
hiện t−ợng đơn lẻ mà là sự khám phá 
cái chung ẩn dấu trong chúng, cái 
chung đó mang tính vĩnh hằng, nó vẫn 
tồn tại mặc dầu các sự vật hiện t−ợng 
đơn lẻ có thể mất đi, ví nh− cái đẹp vẫn 
còn sau khi bông hoa héo. 
Biện chứng pháp hay ph−ơng pháp 
truy vấn Socrates đúng nh− lời nhận 
định của Bryan Magee “đã làm cho ông 
trong chừng mực nào đó, trở thành 
ng−ời nổi tiếng nhất trong tất cả các 
triết gia, ông đã tiến hành truy hỏi 
không ngừng về những khái niệm nền 
tảng của chúng ta” (7, tr.26). Biện 
chứng pháp đó đòi hỏi chúng ta muốn 
hành động đúng tr−ớc hết phải nhận 
thức đúng. Mà muốn nhận thức đúng 
phải biết thiết định nội hàm hay định 
nghĩa khái niệm. Muốn có một định 
nghĩa khái niệm đúng thì không còn 
cách nào ngoài sự tranh luận. Và khi 
con ng−ời đã đ−ợc trang bị một hệ thống 
các khái niệm chuẩn xác, tức tri thức 
đúng về đối t−ợng thì chắc chắn nó sẽ có 
những việc làm thiện - đó là cơ sở để 
thiết lập một khoa học về hành vi con 
ng−ời - Đạo đức học (Ethics). 
4. Nhân học hay lý luận về con ng−ời của Socrates 
Tr−ớc Socrates, các triết gia Hy Lạp 
cổ đại chủ yếu quan tâm đến những vấn 
đề về vũ trụ luận, giải thích sự hình 
thành và phát triển của thế giới dựa 
trên những kiến thức khoa học tự nhiên 
nh− vật lý, toán học, sinh học, v.v... 
Không đi theo lối mòn bản thể luận triết 
học của các bậc tiền bối. Với luận đề nổi 
tiếng: “Con ng−ời, hãy tự nhận thức 
chính mình”, Socrates quyết định lựa 
chọn một con đ−ờng riêng, ông chú ý tới 
vấn đề con ng−ời, mà trọng tâm trong 
bản tính con ng−ời là đạo đức. Theo 
Socrates, triết học không phải là hiện 
t−ợng t− biện, chỉ luận bàn những vấn 
đề chung không liên quan gì đến cuộc 
sống th−ờng nhật, trái lại, nó là ph−ơng 
tiện dạy con ng−ời cách sống hay cần 
phải sống nh− thế nào. Theo nghĩa đó, 
triết học tr−ớc hết phải là tri thức hay 
sự hiểu biết của con ng−ời về con ng−ời, 
tri thức ấy nhất thiết phải là tri thức về 
cái thiện. Nếu đạo đức là hành vi đối 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2012 42
nhân xử thế đẹp thì đạo đức đó không là 
gì khác ngoài tri thức, do vậy, “tri thức 
là đức hạnh”. 
Th−ớc đo của đạo đức là th−ớc đo 
hành vi giao tiếp giữa con ng−ời với sự 
thông thái của thần linh. Sự thông thái 
chính là sự hiểu biết, là tri thức. Tri 
thức có tính chất thần linh và chỉ có tri 
thức mới có khả năng nâng con ng−ời 
ngang tầm thần thánh. Đạo đức với 
những biểu hiện của nó nh− l−ơng tri, 
lòng dũng cảm, sự ngoan đạo, công bằng 
đều là những biểu hiện khác nhau của 
tri thức, giúp con ng−ời lựa chọn điều 
lành, tránh điều dữ. Cái ác phản ánh sự 
thiếu vắng tri thức, nó nảy sinh là do sự 
dốt nát, thiếu hiểu biết, vì không một ai 
khi biết thế nào là tốt mà lại cố tình làm 
điều xấu. Do vậy, làm điều xấu là một 
hành vi vô tình chứ không phải cố ý. 
Tuy nhiên, trong thực tế, nhận thức 
thông th−ờng mách bảo rằng, chúng ta 
th−ờng chiều theo những hành vi biết là 
sai, do vậy làm sai lại là một hành vi 
d−ờng nh− có vẻ cố tình. 
Với ph−ơng châm: “Điều thật sự 
quan trọng không phải là sống mà là 
sống tốt” (9, tr.149), Socrates cho rằng, 
d−ới sự dẫn dắt của lý trí thì sức khỏe, 
sắc đẹp, của cải, lòng dũng cảm, sự hào 
phóng, tính quyết đoán, v.v... đ−ợc sử 
dụng vì mục đích tốt đẹp. Trong tr−ờng 
hợp ng−ợc lại, tai họa sẽ thế chỗ cho lợi 
ích. Chẳng hạn, dũng cảm mà thiếu trí 
khôn sẽ trở nên liều mạng, sắc đẹp đặt 
không đúng chỗ sẽ trở nên lố lăng, kệch 
cỡm, hào phóng thiếu sự cân nhắc sẽ trở 
nên hoang phí. Điều thiện và điều lợi 
phải đ−ợc thống nhất với lý trí, tức mọi 
hành vi đạo đức phải hợp thời, hợp thế, 
hợp lý, hợp tình. Trên cơ sở quan niệm 
này, Socrates đã lên án hành vi tố cáo 
cha mình của Euthyphro, cho rằng đó là 
việc làm vô đạo (xem: 8, tr.12-22). 
Theo Socrates, tri thức và đức hạnh 
là những điều cần thiết cho những kẻ 
làm chính trị. Ng−ời làm chính trị phải 
đặt trách nhiệm xã hội lên vị trí hàng 
đầu chứ không trông cậy vào ô dù, 
n−ơng nhờ quyền lực và thời vận. “Nghĩ 
rằng, mình quá thật thà không thể làm 
nhà chính trị đầy nguy hiểm” (8, tr.31), 
do vậy ông lựa chọn con đ−ờng thuyết 
pháp giống nh− Đức Phật Thích Ca và 
Đức Khổng Tử ở ph−ơng Đông, mong 
mỏi phần nào giáo hóa thiên hạ, giúp họ 
thoát khỏi bể khổ trầm luân của thế giới 
vật dục. Theo Socrates, để có tri thức, 
con ng−ời cần phải có học, học ở tr−ờng 
và học ngoài đời. Hãy bắt đầu từ không 
biết, trải qua nhiều b−ớc, tiến tới tri 
thức và cái thiện phổ quát. Mệnh đề: 
“Tôi biết rằng, tôi không biết gì cả” của 
ông không phải là một mệnh đề mang 
tính t−ơng đối hay h− vô chủ nghĩa mà 
nhằm chỉ ra sự khởi đầu của một 
ph−ơng pháp tiếp cận chân lý. Bởi vì, 
theo lẽ th−ờng tình, mọi sự hiểu biết 
đều khởi đầu từ không biết, nhận thức 
là quá trình tiếp cận chân lý giống nh− 
đ−ờng thẳng (thực tại khách quan) và 
đ−ờng tiệm cận (nhận thức). 
Lối sống giản dị, khiêm tốn và cách 
đối nhân xử thế hợp tình hợp lý của 
Socrates là một tấm g−ơng lớn về đạo 
đức. Suốt đời ông không lo việc kiếm 
tiền, mua sắm của cải, mà chỉ đi thuyết 
pháp về điều thiện, mong −ớc cảm hóa 
đ−ợc mọi ng−ời, giúp họ có một cuộc 
sống nhẹ nhàng thanh thản, không m−u 
toan, tính toán thiệt hơn - điều này 
chúng ta có thể cảm nhận trong lời ông 
tự bạch: “Hỡi loài ng−ời, kẻ khôn ngoan 
nhất là kẻ, giống nh− Socrates, biết 
rằng sự khôn ngoan của mình thực sự 
Socrates và t− t−ởng độc đáo của ông 43
chẳng có giá trị gì. Và vì thế tôi đi khắp 
thế giới, vâng lời thần, và tìm kiếm và 
truy tìm sự khôn ngoan của bất cứ ai, 
dù là đồng bào hay ng−ời n−ớc ngoài, 
mà có vẻ khôn ngoan, và nếu ng−ời ấy 
không khôn ngoan, thì tôi dùng lời sấm 
để nói rằng ng−ời ấy không khôn ngoan; 
và tôi lại thu hút vào công việc của 
mình, nên không có thời giờ quan tâm 
đến các vấn đề công cộng hay vấn đề 
riêng t− của mình, tôi hoàn toàn nghèo 
khó vì phụng sự th−ợng đế” (8, tr.26). 
5. Kết luận 
Triết học Socrates không có một 
mục đích nào khác ngoài việc h−ớng tới 
con ng−ời với những suy t−, trăn trở đời 
th−ờng. Ông thực sự “là một trong số 
những khuôn mặt nổi bật nhất nh−ng 
cũng bí ẩn nhất trong lịch sử triết học” 
(11, tr.1062) vì “đã vạch ra h−ớng đi cho 
triết học đạo đức trong lịch sử văn minh 
ph−ơng Tây. T− t−ởng của ông đã đ−ợc 
Plato, Aristotle và các nhà thần học 
Kitô giáo sửa đổi, nh−ng nó luôn là 
truyền thống trí tuệ và đạo đức trội v−ợt 
mà các biến thể khác đ−ợc khai triển 
xoay quanh” (8, tr.42). 
Lịch sử Hy Lạp đã trải qua gần ba 
thiên niên kỷ kể từ ngày Socrates tạ 
thế, ng−ời Hy Lạp chứng kiến những 
b−ớc thăng trầm, nhiều triết gia xuất 
hiện sau Socrates, họ đã đạt đ−ợc 
những thành tựu thật to lớn. Nh−ng xét 
về ph−ơng diện vai trò lịch sử, không 
một ai trong số họ có thể ngang tầm 
Socrates. Không hẹn mà gặp, luận đề: 
“Con ng−ời hãy tự nhận thức chính 
mình” của ông có nghĩa gần với luận đề: 
“Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” trong 
triết lý ph−ơng Đông. Triết lý Socrates 
không mang tính hàn lâm, t− biện mà 
thật gần gũi với cuộc sống đời th−ờng. 
Ph−ơng pháp Socrates không mang tính 
cao siêu, học thuật mà hiện diện trong 
các cuộc tranh luận trên đ−ờng phố, 
trong nghị tr−ờng và giảng đ−ờng đại 
học. Theo một nghĩa nào đó có thể nói 
sự xuất hiện của ông nh− sự hóa thân 
hay đầu thai trở lại của Đức Phật Thích 
Ca và Đức Khổng Tử, làm cho hai nền 
văn hóa Đông - Tây giao thoa, hội tụ 
trong những nét t−ơng đồng. 
TàI LIệU THAM KHảO 
1. A. N. Charn−sep. Tập bài giảng về 
triết học cổ đại. M.: 1981. 
2. V. Ph. Asmus. Triết học cổ đại. M.: 
1978. 
3. Komorova. Sự hình thành chủ nghĩa 
duy vật trong triết học Hy Lạp cổ 
đại. Leningrad: 1975. 
4. V. C. Nerxecians. Socrates. M.: 1984. 
5. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, 
Nguyễn Anh Tuấn. Đại c−ơng lịch sử 
triết học ph−ơng Tây. Tp. Hồ Chí 
Minh: Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 
2005. 
6. Samuel Enoch Stumpf. Lịch sử triết 
học và các luận đề. H.: Lao động, 
2004. 
7. Bryan Magee. Câu chuyện triết học. 
H.: Thống kê, 2003. 
8. Forrest E. Baird. Tuyển tập danh 
tác triết học, từ Plato đến Drrida. H.: 
Văn hóa thông tin, 2006. 
9. Plato. Những ngày cuối đời của 
Socrates. H.: Văn hóa thông tin, 2008. 
10. Samuel Enoch Stumpf, Donald C. 
Abel. Nhập môn triết học ph−ơng 
Tây. Tp. Hồ Chí Minh: Tổng hợp Tp. 
Hồ Chí Minh, 2004. 
11. Ted Honderich. Hành trình cùng triết 
học. H.: Văn hóa thông tin. 2002. 
12. Đinh Ngọc Thạch. Triết học Hy Lạp. 
H.: Chính trị quốc gia, 1999. 

File đính kèm:

  • pdfsocrates_va_tu_tuong_doc_dao_cua_ong.pdf