Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin và sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh vào xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam
Tóm tắt
Bài viết trình bày về nội dung Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin và phân tích sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh vào xây
dựng đường lối cách mạng Việt Nam, đặc biệt là vấn đề dân tộc, cách mạng giải
phóng dân tộc
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin và sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh vào xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin và sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh vào xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam
Luận cương nhắc đến: “thực hiện sự đoàn kết chặt chẽ nhất tất cả các phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa với nƣớc Nga Xô viết”13. Chính trên cơ sở sự “gần gũi”, sự đồng cảnh ngộ này để rồi tập hợp vào mặt trận đoàn kết chống kẻ thù chung. Từ nhận thức đúng về tình hình ở phƣơng Đông, Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, “ngƣời ta sẽ không thể làm gì đƣợc cho ngƣời An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”14. Từ đó, Ngƣời kiến nghị về cƣơng lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản... khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”15. Nhƣ vậy, xuất phát từ thực tiễn và truyền thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với ý nghĩa là chủ nghĩa yêu nƣớc và tinh thần dân tộc chân chính. Theo Ngƣời, đó là một động lực to lớn góp phần đƣa sự nghiệp cách mạng giải phóng thuộc địa đi tới thắng lợi. Ba là, kết hợp nhuần nhuyễn việc giải quyết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trên lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung thứ 2 bản Luận cƣơng của Lênin đề cập đến sự phân biệt lợi ích giai cấp bị áp bức với lợi ích nhân dân chung chung, phân biệt rõ dân tộc bị áp bức với dân tộc đi áp bức. Nội dung thứ 10 bản Luận cƣơng của Lênin đề cập đến việc phân biệt chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa hòa bình tiểu tƣ sản và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Ngƣời viết: “Sự nghiệp của ngƣời bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành đƣợc chút ít thắng lợi trong một nƣớc nào đó,... thì đó cũng là thắng lợi cho cả ngƣời An Nam”16. Theo Nguyễn Ái Quốc, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội và “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”17. Nếu chỉ xóa bỏ áp bức dân tộc mà không xóa bỏ bóc lột và áp bức giai cấp thì 13 V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.200. 14 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.513. 15 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.513. 16 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.250. 17 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.441. |164 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) nhân dân lao động vẫn cực khổ. Chỉ có thiết lập đƣợc chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất mới xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức bóc lột; chỉ có thiết lập đƣợc một nhà nƣớc thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm tự do, hạnh phúc cho nhân dân. “Nếu nƣớc độc lập mà dân không đƣợc hƣởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”18. Vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng của Lênin vào điều kiện Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ vấn đề đặt ra trƣớc mắt không phải là làm ngay một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà trƣớc hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, sau đó mới có điều kiện tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đƣợc thể hiện trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng, trong đó Ngƣời khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Giữa hai giai đoạn đó gắn bó chặt chẽ, không tách rời nhau. Bốn là, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, độc lập dân tộc còn phải hiểu là độc lập cho dân tộc mình, đồng thời là độc lập cho tất cả các dân tộc. Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhƣng Nguyễn Ái Quốc không quên nghĩa vụ quốc tế. Ngƣời luôn khẳng định sự ủng hộ nhiệt tình đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức trên thế giới và chủ trƣơng bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nƣớc mà góp phần vào thắng lợi chung cho cách mạng thế giới. b. Về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc Nguyễn Ái Quốc xác định các nội dung cơ bản: Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Qua đọc Luận cƣơng của Lênin. Ngƣời khẳng định: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta. Đây là con đƣờng giải phóng chúng ta”19. Theo Nguyễn Ái Quốc: Trong thời đại ngày nay, muốn cứu nƣớc, giải phóng dân tộc không có con đƣờng nào khác con đƣờng cách mạng vô sản. Con đƣờng cách mạng vô sản theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức là cách mạng dân tộc - dân chủ ) và tiến dần từng bƣớc “đi tới xã hội cộng sản”; Lực lƣợng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc; Lực lƣợng lãnh 18 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.64. 19 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.562. 165| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản; Phƣơng pháp cách mạng là sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân; Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế. Nhƣ vậy, vƣợt qua sự hạn chế của các nhà yêu nƣớc đƣơng thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết Mác - Lênin và lựa chọn con đƣờng cách mạng vô sản. Đó là con đƣờng cách mạng đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi khách quan của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải liên minh giai cấp, phải bằng phương pháp bạo lực cách mạng. Vấn đề Đảng cầm quyền đƣợc Lênin nhắc đến trong nội dung thứ 2 của Luận cương. “Đảng Cộng sản, ngƣời đại diện tự giác của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tƣ sản, ngay cả trong vấn đề dân tộc”20. Nội dung thứ 10 của Luận cương: “Các quốc gia hoàn toàn tƣ bản chủ nghĩa đã có các đảng công nhân thực sự là đội tiên phong của giai cấp vô sản”21, nhiệm vụ trƣớc tiên và quan trọng nhất của các Đảng này là “phải đấu tranh chống sự xuyên tạc của bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn tiểu tƣ sản và bọn hòa bình chủ nghĩa, đối với quan niệm và chính sách của chủ nghĩa quốc tế”22. Tiếp thu tƣ tƣởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công “trƣớc hết phải có Đảng cách mệnh”. Theo Ngƣời, “cách mệnh trƣớc hết phải làm cho dân giác ngộ”, “phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”; “Cách mệnh phải hiểu phong trào cách mệnh thế giới, phải bầy sách lƣợc cho dân” và theo Ngƣời “... sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có Đảng cách mệnh”. Vai trò của Đảng là: “Trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản khắp mọi nơi”23. Ngƣời còn chỉ rõ: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhƣng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”24. 20 V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 198. 21 V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.203. 22 V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.203. 23 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.89. 24 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289. |166 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Nguyễn Ái Quốc xác định động lực to lớn và lực lƣợng nòng cốt của cách mạng là liên minh công - nông, lực lƣợng của cách mạng giải phóng dân tộc là lực lƣợng toàn dân, cách mạng là sự nghiệp chung của dân chúng. “Một điều phải chú ý đặc biệt là vai trò của giai cấp tƣ sản nói chung tại các nƣớc thuộc địa và phụ thuộc không giống vai trò của giai cấp tƣ sản tại các nƣớc tƣ bản. Giai cấp tƣ sản dân tộc có thể tham gia tích cực vào cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ”25. Ngƣời nhấn mạnh, vì dân tộc cách mệnh thì chƣa phân giai cấp, nghĩa là sỹ, nông, công, thƣơng đều nhất trí chống lại cƣờng quyền do bị áp bức mà sinh ra cách mạng, ai bị áp bức càng nặng, lòng cách mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết. Do đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tƣ bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông”26. Theo Ngƣời, Việt Nam là một quốc gia ở phƣơng Đông, có chung một dân tộc, một dòng máu, chung phong tục, chung lịch sử và truyền thống, tiếng nói... Ở Việt Nam, các giai cấp trong xã hội chƣa phân chia sâu sắc nhƣ trong xã hội các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây. Do đó, tất cả các lực lƣợng ấy cần đƣợc tập hợp dƣới ngọn cờ giải phóng dân tộc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Nội dung thứ 4 trong Luận cương, Lênin đề cập: “Điều quan trọng trong chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nƣớc gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tƣ sản”27. Đây là điểm quan trọng của Luận cƣơng của Lênin và Nguyễn Ái Quốc đặc biệt chú ý điểm này. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: “Lênin là ngƣời đầu tiên đã hiểu và đánh giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các nƣớc thuộc địa vào phong trào cách mạng. Lênin là ngƣời đầu tiên chỉ rõ rằng, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội không thể có đƣợc”28. Tuy nhiên, Lênin vẫn cho rằng sự thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc bị lệ thuộc vào sự thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc: “Nếu không có chiến thắng đó thì không thể 25 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.171. 26 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.288. 27 V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.199. 28 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47. 167| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam thủ tiêu đƣợc ách áp bức dân tộc và tình trạng bất bình đẳng”29. Nhƣ vậy, với quan điểm trên, V.I. Lênin đã đề cao vai trò chủ động và quyết định của cách mạng chính quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng cách mạng ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trƣớc ở chính quốc. Cơ sở của quan điểm này xuất phát từ nhận thức sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc của Nguyễn Ái Quốc. Ngƣời viết: “chủ nghĩa tƣ bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nên muốn giết con vật ấy, ngƣời ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu ngƣời ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”30. Khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và vai trò quan trọng của cách mạng ở thuộc địa, Ngƣời chỉ rõ: Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nƣớc đi xâm lƣợc thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở thuộc địa. “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tƣ bản Pháp yếu, tƣ bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”31. Theo Nguyễn Ái Quốc: “Nọc độc và sức sống của con rắn độc tƣ bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn các nƣớc chính quốc” 32, vì vậy nếu chỉ đề cao vai trò cách mạng vô sản ở chính quốc mà coi thƣờng cách mạng thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằng đuôi”. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng ở thuộc địa phải đƣợc tiến hành chủ động, vì: “công cuộc giải phóng anh em, (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện đƣợc bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”33. Ngƣời coi cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà còn có khả năng giành thắng lợi trƣớc cách mạng vô sản ở chính quốc. Luận điểm trên là cống hiến rất quan trọng của Nguyễn Ái Quốc vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã đƣợc thực tiễn thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là đúng đắn. 29 V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.199. 30 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30. 31 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 287. 32 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.96. 33 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.138. |168 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) III. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo Luận cương của V.I. Lênin, một số tiểu kết đƣợc rút ra nhƣ sau: Thứ nhất, Luận cương của V.I. Lênin là một văn kiện có giá trị đối với nhà nƣớc Xô viết nói riêng và các dân tộc, thuộc địa nhỏ yếu, chậm tiến đang bị chủ nghĩa tƣ bản, chủ nghĩa đế quốc áp bức, bóc lột nói chung. Thứ hai, việc tiếp xúc với “ánh sáng” chân lý từ Luận cương của V.I. Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đƣờng cứu nƣớc đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - con đƣờng cách mạng vô sản. Thứ ba, những tƣ tƣởng của Lênin trong Luận cương đã đƣợc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh của Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C. Mác và PhĂngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2. V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, tập 2, tập 3, tập 4, tập 11, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 4. Lại Quốc Khánh (2005), “Hồ Chí Minh với sơ thảo lần thứ nhất những luận cƣơng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin”. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học xã hội nhân văn Việt Nam, T-XXI, Số 1, tr.74-82. 5. Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 169|
File đính kèm:
- so_thao_lan_thu_nhat_luan_cuong_ve_van_de_dan_toc_va_thuoc_d.pdf