Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí

Tóm tắt. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi tập trung khảo sát các yếu tố rào đón trên ngữ

liệu là các cuộc phỏng vấn trên một số báo in và báo điện tử, đồng thời đánh giá vai trò

của chúng trong việc thể hiện tính lịch sự. Mục đích của việc sử dụng thành phần rào đón

là ngăn sự hiểu lầm (hiểu lầm về nội dung mệnh đề của phát ngôn, hiểu lầm về hiệu lực ở

lời của phát ngôn, hiểu lầm về thái độ, mối quan hệ của các cá nhân trong cuộc hội thoại.)

hay phản ứng của người nghe về điều mà mình đã nói hoặc sắp nói. Thành phần rào đón

sử dụng trong phỏng vấn khá đa dạng, sự có mặt của chúng khiến các phát ngôn trong giao

tiếp phỏng vấn trở nên lịch sự, tế nhị hơn, thể hiện sự tôn trọng thể diện của cả nhà báo và

người được phỏng vấn.

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí trang 1

Trang 1

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí trang 2

Trang 2

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí trang 3

Trang 3

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí trang 4

Trang 4

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí trang 5

Trang 5

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí trang 6

Trang 6

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 4540
Bạn đang xem tài liệu "Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí

Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí
rong phát ngôn. Chúng xuất hiện 303 lần trong tổng các bài phỏng vấn đã khảo sát:
 (2) Nghe nói, cát – sê của The Voice rất hấp dẫn. Hiệu ứng về mặt truyền thông của chương
trình cho đến thời điểm này cũng “đỉnh”, anh có thấy hối tiếc? (DT 21/08/2012)
 Biểu thức rào đón “nghe nói”, “có ý kiến cho rằng” nhấn mạnh với người nghe rằng anh ta
chỉ là người thay người khác nói lại tin đó, chưa có bằng chứng cụ thể và anh ta không phải chịu
trách nhiệm về tính đúng sai của nó.
 Những biểu thức rào đón này còn hay đi kèm phát ngôn chê hoặc phát ngôn nhận xét, bình
luận có tính chất tiêu cực:
 (3) Ngoài sân khấu, anh đã có hằng trăm vai diễn lớn, nhỏ với phim truyền hình. Tuy nhiên
có ý kiến cho rằng, Trung Anh bị đóng khung trong một kiểu mẫu nhân vật, lúc nào cũng hiền
lành, khắc khổ. . . Anh có cho rằng, việc bị đóng khung trong một kiểu nhân vật sẽ mang đến sự
nhàm chán cho khán giả? (DT 02/06/2012)
 (4) Người ta bình phẩm những người làm bất động sản lớn thường đụng tới đất đai, mồ mả
nên có hậu vận không tốt. Anh có sợ điều đó không? (TP 16/07/2011)
 Hoặc những phát ngôn đề cập đến đề tài quá riêng tư, nhạy cảm:
 (5) Nghe nói cát xê của anh trong bộ phim gây tranh cãi Lý Công Uẩn  Đường tới thành
Thăng Long khá lắm? (TP 29/05/2011)
102
 Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí
 Những vấn đề như: vai diễn “bị đóng khung trong một kiểu mẫu nhân vật”, “những người
làm bất động sản lớn thường đụng tới đất đai, mồ mả nên có hậu vận không tốt”, chuyện cát xê,. . .
đều là những đề tài đe doạ đến thể diện dương tính và thể diện âm tính của người nghe. Sự có mặt
của thành phần rào đón làm giảm trách nhiệm của CTGT với thông tin đưa ra, nó báo trước với
người nghe rằng ý kiến này không phải của riêng anh ta và do vậy, thể diện của anh ta được bảo
toàn.
 b. Một dạng biểu thức rào đón khác, diễn tả độ tin cậy thấp từ phía CTGT với đối tượng
được nói đến trong nội dung mệnh đề, thường được cấu tạo là phó từ hoặc trạng từ: có lẽ, có vẻ,
hình như, dường như, phải chăng, hình như, dường như, gần như, có khi, biết đâu, chắc gì,... Các
từ này xuất hiện 476 lần trong tổng các bài phỏng vấn mà chúng tôi khảo sát. Chúng đều biểu thị
sự phỏng đoán hoặc khẳng định một cách dè dặt đánh giá, nhận xét của CTGT. Chẳng hạn, biểu
thị sự phỏng đoán:
 (6) Những ca khúc chị hát luôn luôn nói đến các cung bậc tâm trạng của một người đau
khổ trong tình yêu. Vậy những cảm xúc đó phải chăng có thật ngoài đời và chị đã từng trải qua?
(DT 7/1/07)
 Các từ thuộc nhóm này biểu thị sự không chắc chắn vào tính đúng sai của nội dung mệnh
đề, đảm bảo “lối thoát” cho CTGT nếu nhận xét của anh ta không đúng. Chúng thường đi kèm
hành vi có mức độ đe doạ thể diện cao:
 (7) Anh đến với thơ trước nhưng dường như thơ đang chết yểu trong biểu đồ thành công
của anh. (DT 23/1/07)
 (8) Anh có vẻ là người đa nghi và sống quá phòng thủ, nên tìm bạn đời trở thành công việc
quá gian nan. (DT 9/3/07)
 Sự xuất hiện của từ rào đón “hình như”, “có vẻ” làm giảm mức độ mạnh của những từ đe
doạ thể diện: “chết yểu”, “đa nghi”, “phòng thủ”, “nhiều kẽ hở”,...
 c. Nhóm từ chỉ mức độ: hơi, khá... Những từ này xuất hiện 225 lần trong các bài phỏng vấn,
thường xuất hiện trong các phát ngôn nhận xét, bình giá. Nhóm từ này có tác dụng giảm nhẹ mức
độ của sự đánh giá, tạo ra độ mờ nhất định về nội dung mệnh đề. “Hơi” thường kết hợp với các vị
từ tiêu cực:
 (9) Bởi thực tế những gameshow truyền hình hình thực tế của ta hiện nay hơi đặt nặng tính
"giải trí, thương mại"...? (DT 14/08/2012)
 “Khá” thường kết hợp với các vị từ tích cực:
 (10) Tập sách có tên khá lạ  “Dĩ vãng phía trước”. Ông có thể cho biết tại sao dĩ vãng lại
ở phía trước? (Vnexpress 06/04/2012)
 Như vậy, trong phỏng vấn, vì mục đích khai thác và cung cấp thông tin, nhà báo đôi khi
phải nói ra những điều mà chính anh ta cũng chưa có bằng chứng xác thực hoặc đưa ra những nhận
xét, câu hỏi có thể gây tổn thất cho người được phỏng vấn. Điều này ảnh hưởng không tốt đến thể
diện của cả hai. Với các phương tiện rào đón giảm thiểu độ tin cậy của thông tin, CTGT né tránh
được trách nhiệm về tính trung thực của nội dung phát ngôn và do đó tránh sự đụng độ tiềm tàng
khi trò chuyện với ĐTGT.
2.1.2. Thành phần rào đón nhấn mạnh mức độ tin cậy của thông tin
 Khi thực hiện một hành động ngôn ngữ, người nói luôn phải có trách nhiệm với hành động
ấy. Với nhà báo, trách nhiệm này lại càng lớn. Khi một phát ngôn thiếu trung thực được công bố
trên phương tiện thông tin đại chúng thì thể diện dương tính của nhà báo sẽ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Vì thế, những dấu hiệu rào đón được viện tới để tăng độ tin cậy của nội dung phát ngôn.
 103
 Phạm Thị Tuyết Minh
Qua khảo sát, chúng tôi thấy xuất hiện 255 biểu thức thuộc loại này, chủ yếu là hai dạng:
 – Chắc chắn, rõ ràng, sự thật là, căn cứ vào,. . .
 – Nhiều người cho rằng, rất nhiều người muốn. . . , không ít người cho rằng, mọi người nói
(cho rằng, đánh giá. . . ), khán giả (công chúng) cho rằng, ai cũng nói. . .
 Riêng loại hai xuất hiện với tần số lớn hơn trong phỏng vấn: 272 phát ngôn sử dụng cách
nói này. Điều này phản ánh một hiện thực: nhà báo chỉ là phát ngôn viên của công chúng nên ý
kiến mà họ đưa ra thực chất là ý kiến của công chúng. Mặt khác, những cụm từ này cũng được sử
dụng như một phương tiện rào đón đảm bảo mức độ tin cậy của thông tin đưa ra. Nhà báo muốn
thông báo cho ĐTGT rằng anh ta chỉ nói những điều có sức thuyết phục cao:
 (11) Nhiều người lo ngại dự án trên sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực cho di sản thiên nhiên thế
giới Phong Nha  Kẻ Bàng, trong đó có Sơn Đoòng  hang động lớn nhất thế giới với nhiều thành
tạo hiếm có. Ông nghĩ sao về lo ngại này? (Vnexpress 06/11/2014)
 Trong tiền giả định bách khoa của người Việt: những gì đã được số đông xác nhận thường
là đúng đắn. Nó xuất phát từ tư duy của người dân sống trong một nền văn hoá trọng tính cộng
đồng. Tập thể bao giờ cũng thắng thế: “Đa số thắng thiểu số”, “Khôn độc không bằng ngốc đàn”,
“Chết một đống còn hơn sống một người”. Quan điểm này đã in dấu vào tư duy ngôn ngữ và với
người Việt Nam, những cụm từ như: “nhiều người” “mọi người nói”, “ai cũng nói””rõ ràng là”. . .
thường có sức thuyết phục cao. Trong phỏng vấn, nhà báo sử dụng cách thức này như một chiến
lược bảo vệ lịch sự dương tính của mình.
 Tóm lại, làm giảm hay tăng cường độ tin cậy của thông tin thì cũng là cách bảo vệ thể diện
của người nói. Hai loại biểu thức rào đón này thực chất là biểu thức rào đón phương châm hội thoại
của Grice nhưng rõ ràng là chúng có mối quan hệ chặt chẽ với tính lịch sự.
2.1.3. Thành phần rào đón giảm thiểu mức độ áp đặt lên người nghe
 Các thành phần rào đón có tác dụng giảm thiểu mức độ áp đặt lên người được phỏng vấn
thường là từ tình thái “có thể” và một số từ ngữ giảm thiểu như “một chút”, “một ít”, “một vài”,
. . . Chúng còn được gọi là các biện pháp “dịu hoá” – softener (Brown & Levinson) hay “mềm hoá”
– mitigator (House & Kasper). Từ tình thái “có thể” thường xuất hiện trong cấu trúc gián tiếp ước
lệ “có thể. . . (không)” làm những hành vi hỏi có hiệu lực gián tiếp là hành vi thỉnh cầu. Chúng xuất
hiện 158 lần trong tư liệu khảo sát. Bằng hình thái của câu hỏi, hành vi thỉnh cầu trở nên lịch sự,
tế nhị, dễ chấp nhận:
 (12) Ông có thể cho biết nguyên nhân của sự cố? (TP 08/02/2011)
 Từ ngữ giảm thiểu: một chút, một ít, một vài, chút,. . . xuất hiện 194 lần. Những từ ngữ này
có tác dụng giảm nhẹ mức độ áp đặt của lực ngôn trung. “Một chút”, “một ít” thường kết hợp với
cấu trúc gián tiếp ước lệ trên trong phát ngôn hỏi – thỉnh cầu, đặc biệt trong những phát ngôn hỏi
đề cập đến vấn đề thuộc lãnh địa cá nhân như: tình yêu, tiền bạc. ..
 (13) Anh có thể chia sẻ một chút về Live jazz? (DT 12/11/2012)
 Từ “có thể” bộc lộ thái độ của người nói: không áp đặt, để ngỏ sự lựa chọn quyền trả lời
hay không trả lời. “Một chút, “một ít”. . . cũng giảm nhẹ mức độ áp đặt. Nói là “một chút”, “một
ít” nhưng thực chất CTGT mong muốn ĐTGT chia sẻ một lượng thông tin nhiều hơn thế.
2.1.4. Thành phần rào đón tôn vinh thể diện của người nghe
 Ngoài ra, trong phỏng vấn còn có các thành phần rào đón tôn vinh thể diện của người nghe,
thể hiện về mặt hình thức là hành động ngôn từ khen. Hành động khen xuất hiện với tư cách là
thành phần rào đón thể hiện sự đánh giá cao của nhà báo với người được phỏng vấn đồng thời có
104
 Rào đón với việc thể hiện phép lịch sự trong phỏng vấn báo chí
tác dụng giảm mức độ đe dọa thể diện của hành động hỏi. Số lượng thành phần rào đón tôn vinh
thể diện xuất hiện không nhiều (chiếm 5.4 %) nhưng chúng cũng có vai trò đặc biệt quan trọng
trong phỏng vấn. Những lời khen chân thành có thể giúp nhà báo xoá bỏ rào cản và sự lo lắng ban
đầu của người được phỏng vấn. Về mặt tâm lí, hầu như ai cũng cảm thấy vui vẻ khi được khen,
được ngợi ca những cố gắng mà mình đã đạt được, nhất là khi lời khen ấy lại xuất phát từ nhà báo
– người đại diện cho công chúng và lời khen ấy được đưa lên các phương tiện truyền thông.
 Trong phỏng vấn, hành vi khen đóng vai trò là thành phần rào đón, mở đường cho các hành
vi sau đó. Ví dụ, khen và hỏi nguyên nhân, bí quyết làm nên thành công hoặc cảm xúc khi đón
nhận thành công:
 (14) Thưa ông, câu chuyện làm giàu của ông đã vượt ra khỏi đất nước Việt Nam, ông
được WSJ bình chọn là một trong những doanh nhân quyền lực nhất khu vực Đông Nam Á.
Ông đón nhận sự kiện này như thế nào? (TP 17/09/2011)
 Khen và đưa ra hành vi đe doạ thể diện. Ở đây lời khen giống như yếu tố vuốt ve (sweetener)
làm nuốt trôi những viên thuốc đắng:
 (15) Vợ anh càng ngày càng đẹp. Nhưng đi kèm những lời khen là những nghi án thẩm mỹ.
Anh ở gần Lưu Hương Giang nhất anh thấy cô ấy thế nào? (DT 28/06/2013)
 Khen chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi chiến lược giao tiếp cá nhân. Khen chỉ có thể là hành
vi tôn vinh thể diện khi xuất hiện đúng lúc, đúng nơi, và đặc biệt phải xuất phát từ tình cảm chân
thành của chủ thể phát ngôn.
 Trên đây là những dấu hiệu rào đón xuất hiện với tần số nhiều nhất trong giao tiếp. Ngoài
ra, trong phỏng vấn còn xuất hiện những biểu thức rào đón điển hình cho phép lịch sự, mặc dù
xuất hiện với số lượng ít hơn. Đó là những thành phần rào đón có cấu tạo là cụm từ cố định như:
“Tò mò một chút”, “một câu hỏi tế nhị”, “hỏi khí không phải”. . .
 (16) Dù không muốn kể rõ về chuyện riêng tư, chị có thể "bật mí" một chút về người mình
yêu? (Vnexpress 05/08/2012)
 Những biểu thức rào đón xuất hiện như một kiểu dẫn nhập báo trước để người nghe chuẩn
bị tiếp nhận một hành vi ngôn ngữ nào đó có khả năng đe doạ thể diện. Trong các ví dụ trên, vấn
đề tiền lương, thù lao, chuyện gia đình đều được coi là những vấn đề thuộc lãnh địa cá nhân mà
không phải ai cũng sẵn lòng công bố trước công chúng. Sự xuất hiện của các biểu thức rào đón
trên phần nào giúp người nghe giảm thái độ khó chịu khi bị hỏi về vấn đề riêng tư.
3. Kết luận
 Kết quả khảo sát thành phần ráo đón sử dụng trong các cuộc phỏng vấn trên báo cho thấy:
  Thành phần rào đón sử dụng trong phỏng vấn khá đa dạng, sự có mặt của chúng khiến
các phát ngôn trong giao tiếp phỏng vấn trở nên lịch sự, tế nhị hơn, thể hiện sự tôn trọng thể diện
của cả nhà báo và người được phỏng vấn. Các loại thành phần rào đón xuất hiện không đồng đều,
thành phần rào đón giảm nhẹ thông tin là loại được ưa dùng hơn cả.
  Trong các thành phần kể trên, có những thành phần rào đón vốn thuộc phương châm hội
thoại. Tuy nhiên, chúng cũng có hiệu lực thuộc về phép lịch sự khi nhà báo thực hiện các hành vi
có tính chất đe dọa thể diện cao như: hỏi, nhận xét, yêu cầu.
  Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy các thành phần rào đón thể hiện lịch sự
thường xuất hiện trong giao tiếp khẩu ngữ của người Việt (như: A biết B không thích/ không bằng
lòng/B sẽ ghét/ sẽ giận nhưng A vẫn phải nói; nói vô phép, nói mạn phép; nói B bỏ ngoài tai/bỏ
quá đi cho/đừng giận/đừng trách/đừng tự ái, B có thông cảm, bỏ qua thì mới nói,..) thường không
 105
 Phạm Thị Tuyết Minh
xuất hiện trong phỏng vấn. Điều này do tính nghi thức của giao tiếp phỏng vấn báo quy định. Mặt
khác, tư liệu kháo sát của chúng tôi đều là báo in và báo điện tử, các văn bản đều được biên tập lại
trước khi cho xuất bản nên các thành phần rào đón đặc trưng cho giao tiếp khẩu ngữ trên gần như
không xuất hiện.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Diệp Quang Ban, 2011. Ứng dụng cách nhìn dạy học vào việc giải thích một số yếu tố có mặt
 trong câu phát ngôn. Tạp chí Ngôn ngữ, số 07, tr.58  62.
[2] Đỗ Hữu Châu, 2006. Đại cương ngôn ngữ học – Tập 2. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3] Nguyễn Thiện Giáp, 2000. Dụng học Việt ngữ. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[4] Vũ Thị Thanh Hương, Hoàng Tử Quân, 2006. Ngôn ngữ văn hoá và xã hội  Một cách tiếp cận
 liên ngành, Tuyển tập dịch. Nxb Thế giới, Hà Nội.
[5] Maria Lukina, 2004. Công nghệ phỏng vấn. Nxb Thông tấn, Hoàng Anh dịch, Hà Nội.
[6] Vũ Thị Nga, 2010. Khảo sát hành vi rào đón trong giao tiếp tiếng Việt. Luận án Tiến sĩ Ngôn
 ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
[7] Hoàng Phê (chủ biên), 2004. Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà
 Nội, Đà Nẵng.
[8] Đào Nguyên Phúc, 2003. Biểu thức rào đón trong hành vi ngôn ngữ xin phép tiếng Việt trên
 cơ sở lí thuyết về phương châm hội thoại của Grice. Tạp chí Ngôn ngữ, số 6, tr. 2429.
[9] Nguyễn Văn Quang, 2002. Giao tiếp và giao tiếp giao văn hoá. Nxb Đại học Quốc gia.
[10] Nguyễn Văn Quang, 2004. Một số vấn đề giao tiếp nội văn hoá và giao văn hoá. Nxb Đại
 học Quốc gia, Hà Nội.
[11] Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, 2005. Cơ sở lí luận báo chí truyền thông.
 Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[12] Trần Thị Phương Thu, 2015. Đặc điểm của thành phần rào đón ở hành vi hỏi trực tiếp trong
 tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt). Ngôn ngữ và Đời sống, số 2 (232), tr. 3239.
[13] Phạm Thị Thanh Thùy, 2008. Phương tiện rào đón trong các bài báo nghiên cứu kinh tế tiếng
 Anh và tiếng Việt. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
 Nội.
[14] Trần Thị Bích Thủy, 2008. So sánh cách nói rào đón dựa trên nguyên lí cộng tác và phép
 lịch sự trong hội thoại Anh  Việt. Nội san nghiên cứu khoa học số 502008, Đại học Tài chính
 kế toán.
 ABSTRACT
 Hedging and politeness in journalistic interviews
 Pham Thi Tuyet Minh
 Foreign Trade University
 This paper mainly focus on the hedge devices used in journalistic interviews as well as
point out their role in express politeness. The purpose of hedging is to prevent misunderstanding
(misunderstanding about the utterance’s proposition, misunderstanding about illocutionary force,
and misunderstanding about the interpersonal relationship in conversation) or to prevent
unexpected reactions to what was said or what about to be said. Hedge devices used in interviews
are quite diverse, their presence make the interviews more polite, more considerate. It help the
preservation of face of both interviewer and interviewee.
 Keywords: Hedging, politeness, journalistic interview.
106

File đính kèm:

  • pdfrao_don_voi_viec_the_hien_phep_lich_su_trong_phong_van_bao_c.pdf