Quy tắc xuất xứ trong FTA thế hệ mới: Tác động đa chiều tới triển vọng ngành Dệt may Việt Nam
Năm 2019 đánh dấu bước tiến mới trong chính sách thương mại Việt Nam
b ng l ký kết Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Châu Âu (EVFTA). Cùng với Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), EVFTA là hai Hiệp
định thương mại tự thế hệ mới với mức thuế cam kết xuống 0% đối với tất cả mặt hàng. Tuy
nhiên, các quy định “phi thuế quan” trong Hiệp định được coi là điểm nghẽn chủ yếu của
Hiệp định. Bài viết này hướng tới cái nhìn đa chiều đối với quy định Quy tắc về xuất xứ
(Rules of Origin). Tồn tại hai góc nhìn và đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp cho
Việt Nam trong thời gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Quy tắc xuất xứ trong FTA thế hệ mới: Tác động đa chiều tới triển vọng ngành Dệt may Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy tắc xuất xứ trong FTA thế hệ mới: Tác động đa chiều tới triển vọng ngành Dệt may Việt Nam
đoạn‖ đồng nghĩa với toàn bộ quy 1131 trình từ ―toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối CPTPP‖ (hàng hoá xuất xứ thuần tuý cộng gộp). Đây là cam kết ở mức cao hơn EVFTA và là quy tắc chặt chẽ nhất mà ngành dệt may Việt Nam gặp phải trong khuôn khổ các FTA trước đây. Một số điều kiện loại trừ được áp dụng với các mặt hàng như ―vali, túi xách, áo ngực phụ nữ, quần áo trẻ em bằng sợi tổng hợp‖ và quy tắc nguồn cung thiếu hụt với 194 loại sợi trong đó có 8 loại sợi trong nhóm nguồn cung thiếu hụt tạm thời và 186 loại sợi trong nhóm nguồn cung thiếu hụt vĩnh vi n được phép nhập ngoài khu vực CPTPP (Bộ Công thương, 2019). 3.3. Vướng mắc của ngành dệt may Việt Nam Theo Tổng cục Thống ke , tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dẹ t may trong na m 2019 đạt 32,6 tỷ USD, ta ng 6,9% so với na m 2018. Thị tru ờng xuất khẩu chủ lực của thị trường Việt Nam là Mỹ (47%), EU (15%), Nhật (12%) và Hàn Quốc (9%). Như vậy, trừ Mỹ, các thành viên trong Hiệp định CPTPP và EVFTA là đối tác xuất khẩu chiến lược của Việt Nam trong ngành dệt may (Tổng cục Thống kê, 2018) Tuy nhiên, trong các ngành hàng, dệt may sẽ gặp khó khăn nhất để đạt mức tăng trưởng dự báo. Các mức quy định trong quy tắc xuất xứ của cả hai Hiệp định là những mức cam kết khắt khe nhất. So với ROO của Hiệp định CPTPP từ ―sợi trở đi‖, quy tắc xuất xứ từ ―vải trở đi‖ của EVFTA có nới lỏng hơn. Tuy nhiên, quy định này vẫn tồn tại thách thức cho phía Việt Nam. Trong chuỗi cung ứng của ngành dệt may, tính đến năm 2019, phần lớn (65%) doanh nghiệp chỉ thực hiện công đoạn cắt – may (CMT - Cut, Make, Trim hay cắt, may, cắt chỉ) và vải nguyên liệu được sử dụng để sản xuất chủ yếu được nhập khẩu. Các loại hình doanh nghiệp được phép chọn nguồn vải chỉ chiếm 35% trong đó chỉ có 1% doanh nghiệp có thương hiệu (OBM - Original Brand Manufacturer hay nhà sản xuất thương hiệu gốc), 9% doanh nghiệp gia nhập chuỗi cung ứng từ khâu thiết kế (ODM - Original Designed Manufacturer hay nhà thiết kế sản phẩm gốc), và 25% doanh nghiệp nhận đơn hàng may nhưng không còn trách nhiệm khi sản phẩm ra khỏi cảng (FOB - Free On Board) (Tạp chí Tài chính, 2019). Điều này xuất phát từ hạn chế về tài chính của các doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp FOB yêu cầu quy mô vốn lớn ―với quy mô hơn 400 công nhân và giá trị sản phẩm 500 tỷ đồng/năm‖ (Tạp chí Tài chính, 2019). (Hình 1) Mặt khác, Thị trường Việt Nam dệt may không tự chủ được nguồn nguyên liệu. Theo Hiệp hội dệt may, tính đến năm 2019, Việt Nam hiện có 6.000 doanh nghiệp, trong đó có 5.101 doanh nghiệp (chiếm 85%) doanh nghiệp hoạt động gia công may mặc. Doanh nghiệp sản xuất vải, nhuộm là 780 doanh nghiệp (chiếm 13%). Số lượng sản xuất chế biến xơ, sợi là 119 doanh nghiệp (chiếm 2%). Trước mắt, Việt Nam chỉ có một số nhỏ doanh nghiệp có dây truyền sản xuất khép kín như: Dệt may Thành Công (TCM), các công ty thuộc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (VGT) như Dệt may Phong Phú, Dệt may Huế, Dệt may Nam Định. 1132 Các thị trường nhập khẩu nguyên liệu chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc (40%), Hàn Quốc (15%), Đài Loan (9%), Mỹ (7%), và Nhật (5%) (Công ty Chứng khoán Phú Hưng, 2019). Trung Quốc vẫn là đối tác nhập khẩu nguyên liệu chủ yếu của Việt Nam. Xu hướng này đang giảm dần sau sự kiện Biển Đông và xu hướng ký kết Hiệp định không có sự tham gia của Trung Quốc. Doanh nghiệp dệt Việt Nam đã tìm các đối tác khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, EU và Mỹ. Trong số các đối tác này, Việt Nam chỉ có thể nhận ưu đãi thuế đối với nguyên liệu từ Hàn Quốc (trong phạm vị EVFTA) và Nhật (trong phạm vi CPTPP) (Hiệp hội dệt may, 2019). Nguồn: Công ty Chứng khoán Phú Hưng, 2019 Hình 1: Tỷ trọng các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng dệt may Việt Nam Trong chuỗi cung ứng dệt may từ xe sợi - dệt - nhuộm, quy trình nhuộm là nút thắt của ngành. Với xu hướng sợi polyester filament (chiếm trên 45% tỷ trọng tiêu thụ trong nước), Việt Nam có nguồn cung đầy đủ trong nước từ các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, quy trình nhuộm yêu cầu kỹ thuật, công nghệ, và chi phí giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường lớn. Chất thải dệt nhuộm sử dụng nhiều xơ sợi tổng hợp như Polyester sử dụng thuốc nhuộm và các chất phụ trợ khó phân giải vi sinh gây ô nhiễm môi trường trong nước thải. Khí thải ngành dệt nhuộm phát tán ra thị trường ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân khu vực. Đa phần các loại phẩm nhuộm đều có độc tính, một số loại còn có khả năng gây ung như thuốc nhuộm Azo là nhóm lớn nhất dùng trong ngành tẩy nhuộm chiếm khoảng 65% trong tổng số các loại thuốc nhuộm dùng để nhuộm và in hoa. Chính vì thế, các tỉnh Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, v.v liên tiếp không phê duyệt hoặc đình chỉ hoạt động của các nhà máy nhuộm vải do quan ngại về ô nhiễm môi trường (Tạp chí Tài nguyên môi trường, 2019). Bên cạnh đó, nhân công dệt may Việt Nam chủ yếu tập trung về dệt và thiếu nguồn lao động nhuộm. Cả nước có hai Trường đại học Bách Khoa tại Hà Nội và Hồ Chí Minh đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất dệt, nhuộm, vải nhưng tuyển sinh không đảm bảo được hơn 70% chỉ tiêu 100 sinh viên (VOV, 2019). Thương hiệu Thiết kế Lựa chọn nguyên liệu Cắt may Phân phối và Marketing OBM (1%) ODM (9%) FOB (25%) CMT (65%) 1133 Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam (2019) Biểu đồ 1: im ngạch nhập khẩu nguyên liệu dệt may giai đoạn 2012 – 2018 Như vậy, quy tắc xuất xứ đã hạn chế phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hưởng ưu đãi trực tiếp từ các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới. Ngoài ra, cán cân thương mại trong lĩnh vực dệt may giữa Việt Nam và các đối tác nhập khẩu nguyên liệu dệt may như Châu Âu hoặc Nhật Bản chưa thể lường trước kết quả. Bài học giữa Mỹ và Mexico trong ngành dệt may trong Hiệp định NAFTA liệu có lặp lại tại Hiệp định EVFTA và CPTPP. Tuy nhiên, hướng đi đường dài của doanh nghiệp trong nước vẫn là tự chủ nguồn nguyên liệu trong nước nếu không muốn rơi vào bẫy chính trị giữa các nước sử dụng Việt nam để giảm bớt sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. 4. Khuyến nghị chính sách tận dụng Hiệp định thƣơng mại thế hệ mới Nghị quyết 06-NQ/TW năm 2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã quán triệt chủ trương trong 5 - 10 năm tới, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế cũng như có chính sách phù hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh thấp vươn lên; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, trình độ pháp luật quốc tế. Sau khi hai Hiệp định CPTPP và EVFTA có hiệu lực (đối với CPTPP là năm 2019 và đối với EVFTA dự kiến là năm 2020), Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan sẽ ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn việc thực thi các cam kết trong hai Hiệp định này. Bên cạnh 1134 những văn bản pháp luật đó, Việt Nam cần đồng thời đưa ra những cơ chế, chính sách hỗ trợ cho việc thực thi và tận dụng các cam kết trong CPTPP và EVFTA, cũng như giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong các ngành công nghiệp. Bài viết này sẽ đưa ra khuyến nghị chính sách để hỗ trợ cho việc thực thi các cam kết trong CPTPP và EVFTA. Cụ thể, mặt hàng dệt may trong EVFTA và CPTPP sẽ được xóa bỏ thuế quan hoặc cắt giảm theo lộ trình từ 3 - 16 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Theo đó, hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU và các nước thành viên CPTPP sẽ được xóa bỏ thuế quan hoàn toàn vào năm 2036. Để doanh nghiệp dệt may đáp ứng được quy tắc xuất xứ về dệt may và thực sự tận dụng được lợi ích của EVFTA và CPTPP sau khi kết thúc lộ trình cắt giảm thuế quan, Việt Nam cần cân nhắc thực hiện các khuyến nghị sau trong giai đoạn 2020 - 2035: 4.1. Về phía Chính phủ và Bộ, ngành - Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực dệt may, đảm bảo làm chủ nguồn nguyên liệu trong nước, đáp ứng được các quy định về quy tắc xuất xứ trong EVFTA và CPTPP, để doanh nghiệp dệt may có thể được hưởng lợi từ quy tắc xuất xứ trong hai Hiệp định này. Các Bộ, ngành liên quan cần xây dựng, hoàn thiện các khung khổ pháp lý cũng như hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở Quyết định số 68/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2016 - 202563. - Xây dựng cơ chế phát triển cần tăng cường tính kết nối giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng. Một trong những biện pháp có thể thông qua là việc xây dựng các khu công nghiệp dệt – may tập trung. Trong dài hạn, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhuộm cần được cân nhắc. Trong thời gian gần đây, doanh nghiệp Việt Nam bước đầu xây dựng quy trình khép kín như nhà máy Sợi Nam Định và Nhà máy Liên hợp Sợi – Dệt – Nhuộm – May tại Quảng Nam. - Giải tỏa lo ngại về vấn đề môi trường của các dự án dệt nhuộm. Thay vì cấm các dự án đầu tư vào lĩnh vực dệt nhuộm, Việt Nam cần có cơ chế phối hợp với các cơ quan quản lý tại địa phương theo nguyên nới rộng quy tắc tiếp nhận các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt nhuộm song song với việc thắt chặt công tác quản lý xử lý chất thải, khuyến khích ngân hàng cung cấp tín dụng cho các dự án dệt nhuộm. Bên cạnh đó, Chính phủ cần xem xét xây dựng bộ quy tắc môi trường đảm bảo cân bằng giữa lợi ích kinh tế và phát triển bền vững. 4.2. Về phía doanh nghiệp - Trong ngắn hạn, doanh nghiệp có thể mở rộng tìm kiếm đối tác cung cấp nguồn vải từ thị trường Hàn Quốc (đối với Hiệp định EVFTA) hoặc nghiên cứu sử dụng các loại sợi khan hiếm (đối với Hiệp định CPTPP). 63 Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ dệt may được ưu tiên phát triển bao gồm: xơ thiên nhiên (bông, đay, gai, tơ tằm); xơ tổng hợp (PE, viscore, sợi dệt kim, sợi dệt thoi, sợi polyester có độ bền cao, sợi spandex, nylon có độ bền cao); vải (vải kỹ thuật, vải không dệt, vải dệt kim, vải dệt thoi); chỉ may; hóa chất, chất trợ, thuốc nhuộm phục vụ ngành nhuộm hoàn tất vải, phụ liệu ngành may (cúc, khóa kéo, băng chun) 1135 - Doanh nghiệp cần tích cực nâng cao năng lực về hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cần hiểu rõ và hiểu sâu các cam kết trong các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan, quy tắc xuất xứ, dịch vụ đầu tư, và cả cam kết về các biện pháp phi thuế quan, phòng vệ thương mại, vốn đã và đang trở thành các rào cản phức tạp đối với các doanh nghiệp khi muốn tiếp cận thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tích cực tham gia các buổi tập huấn về các cam kết trong Hiệp định EVFTA do Bộ, ngành phối hợp với các Hiệp hội, ngành hàng và địa phương tổ chức để trao đổi, giải đáp thắc mắc về quy trình, thủ tục để được hưởng ưu đãi thuế quan đối với mặt hàng dệt may, từ đó giảm thiếu đáng kể chi phí hành chính phát sinh từ việc áp dụng quy tắc xuất xứ. - Doanh nghiệp phải thay đổi tư duy kinh doanh thích nghi với bối cảnh mới, tích cực tìm hiểu, nắm bắt thông tin và linh hoạt trong việc tiếp cận, tận dụng cơ hội. Song song với đó, việc đầu tư xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo thực hiện tất cả các khâu trong quy trình sản xuất từ xe sợi – dệt – nhuộm. Chỉ khi doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu, đáp ứng các tiêu chí xuất xứ theo cam kết thì những ưu đãi thuế quan mới phát huy được hiệu quả thúc đẩy xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế cho đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Baldwin, R 2005, ‗Asian regionalism: promises and pitfalls‘, in CY Ahn, RE Baldwin & I Cheong (eds), East Asian economic regionalism: feasibilities and challenges, Springer, pp. 157-74. Báo Hải quan (2019), CPTPP đem lại gì cho Việt Nam sau 1 năm?, https://haiquanonline.com.vn/cptpp-dem-lai-gi-cho-viet-nam-sau-1-nam-118408.html Bộ Công Thương (2019), Các cam kết của Việt Nam trong một số lĩnh vực chính của Hiệp định CPTPP, 463d-8016-7c56827c143a Bộ Công thương (2019), Các cam kết của Việt Nam trong một số lĩnh vực chính của Hiệp định CPTPP, 463d-8016-7c56827c143a Bộ Kế hoạch và Đầu tư (n.d.). Báo cáo đánh giá tác động của Hiệp định EVFTA đối với Việt Nam. p.21. Breton, P. & Miriam, M. (2002), Making EU Trade Agreements Work: The Role of Rules of Origin, Trung tâm Nghiên cứu chính sách Châu Âu. Công ty Chứng khoán Phú Hưng (2019), Co họ i ta ng tru ởng ngành dẹ t may vẫn tiếp tục trong na m 2019, https://tinnhanhchungkhoan.vn/bcpt/phs-co-hoi-tang-truong-nganh-det- may-van-tiep-tuc-trong-nam-2019-3651.html Estevadeordal, A. và Suominen, K. (2003), Rules of Origin in the World Trading System,https://www.wto.org/english/tratop_e/region_e/sem_nov03_e/estevadeordal_paper_e.pdf 1136 Herin, Jan (1986) ―Rules of Origin and Differences between Tariff Levels in EFTA and in the EC,‖ EFTA Occasional Paper No. 13, Geneva, February 1986. Hiệp hội dệt may Việt Nam (2019), Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam khi CPTPP có hiệu lực, Hội thảo CPTPP với doanh nghiệp: Lợi ích hay thách thức? tổ chức bởi VnExpress Kala, K. (2005), Understanding rules of origin, https://www.nber.org/papers/ w11150.pdf Krishna , K. và A.O. K rueger (1995), . “Implementing Free Trade Areas: Rules of Origin and Hidden Protection,‖ in A. Deardorff, J.Levinsohn and R.Stern (eds.), New Directions in Trade TheoryAnn Arbor : Đại học University of Michigan Press. 1995. Krugman, P. (1991), The Move Toward Free Trade Zones, in Policy Implications of Trade and Currency Zones, Kansas City: Federal Reserve Bank of Kansas City. Sandler (2017), Travis & Rosenberg Trade Report, Withdrawal from NAFTA Could Harm U.S. Textile and Apparel Sector, Report Says, Travis & Rosenberg Trade Report, link: https://www.strtrade.com/news-publications-NAFTA-textiles-apparel-110717.html Tạp chí Công thương (2020), Dệt May Việt Nam đạt 39 tỷ USD tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019, kim-ngach-xuat-khau-nam-2019-67200.htm Tạp chí Tài chính (2019), Bao giờ ngành dệt may thoát cảnh gia công?, 303393.html Tạp chí Tài chính (2019), Phát triển ngành Dệt may Việt Nam trong tình hình hiện nay, tinh-hinh-hien-nay-315952.html Tạp chí Tài nguyên môi trường (2019), Dệt nhuộm - tiềm ẩn nỗi lo môi trường: Các dự án dệt, nhuộm vì sao bị từ chối?, https://baotainguyenmoitruong.vn/det-nhuom-tiem-an- noi-lo-moi-truong-cac-du-an-det-nhuom-vi-sao-bi-tu-choi-249351.html Tổng cục Thống kê (2018), Tình hình kinh tế- xã hội 11 tháng năm 2018, https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19004 Tổng cục Thống kê (2019), Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2019, https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19454 Văn phòng WTO (2019), Điểm tin Hiệp định EVFTA, Văn phòng WTO (2019), Quy tắc xuất xứ trong FTA mà Việt Nam tham gia, Văn phòng WTO (2019), Tóm tắt Nghị định thư 1 về Quy tắc xuất xứ EVFTA, VOV (2019), Giải pháp nào tháo gỡ khó khăn cho sản xuất vải?, https://vov.vn/kinh- te/giai-phap-nao-thao-go-kho-khan-cho-san-xuat-vai-936525.vov
File đính kèm:
- quy_tac_xuat_xu_trong_fta_the_he_moi_tac_dong_da_chieu_toi_t.pdf