Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo EVFTA và khả năng đáp ứng của Việt Nam
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) là
một trong hai Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới Việt Nam đã tham gia. Một trong những
tính mới của Hiệp định này là quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo tiêu chí hai công
đoạn (hay còn gọi là “từ vải trở đi”). Trong khi đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ
yếu sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc và motts số quốc gia không phù hợp
với quy định xuất xứ của EVFTA. Trong bối cảnh EVFTA đang chờ được phê chuẩn và đưa
vào thực thi, việc nghiên cứu về quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong Hiệp định này và
tình hình đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam, đề xuất các giải pháp để nâng cao khả
năng đáp ứng là rất cần thiết. Bài viết dưới đây sẽ tập trung làm rõ các nội dung sau: (i) Giới
thiệu khái quát về nội dung của EVFTA; (ii) Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong
EVFTA; (iii) Tình hình đáp ứng quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo EVFTA của Việt
Nam và (iv) Một số giải pháp nâng cao khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ theo EVFTA của
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo EVFTA và khả năng đáp ứng của Việt Nam
% vải các loại từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc... hay 80% sợi để sản xuất là nhập khẩu từ Mỹ, Tây Phi, Ấn Độ... Bên cạnh đó, theo Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas), trung bình mỗi năm, cả ngành dệt may sử dụng khoảng 820.000 tấn nguyên phụ liệu, trong đó khoảng 70% nhập từ Trung Quốc. Như vây, nếu không có sự chuyển hướng thị trường khai thác nguyên phụ liệu phù hợp, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó có cơ hội được hưởng ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA và CPTPP. Theo quy tắc xuất xứ trong EVFTA, hàng dệt may khi xuất khẩu sang EU phải đáp ứng nguồn nguyên liệu vải sử dụng phải có xuất xứ từ Việt Nam/EU hoặc vải nhập khẩu từ Hàn Quốc và việc cắt, may phải được thực hiện tại Việt Nam/EU. Tuy nhiên, hiện nay nguồn nguyên liệu vải của Việt Nam chủ yếu đến từ nguồn nhập khẩu từ các thị trường khác ngoài EU và Hàn Quốc. 409 Nguồn: Tổng c c Hải quan, “Sơ bộ tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong nửa cuối tháng 12/2019 (từ ngày 16/12 đến ngày 31/12/2019)”, https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1733&Category= Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20k%E1%BB%B3&Group= Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch Hình 1: Trị giá nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất vào Việt Nam trong năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018 Nhìn chung, cho đến giữa năm 2019, Việt Nam đa số nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt nay từ nước ngoài. Trong giai đoạn này, nguồn cung nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu cũng ngày càng có xu hướng tăng mạnh qua các năm. Trong đó, nguyên liệu quan trọng nhất để đáp ứng quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong EVFTA là vải cũng có xu hướng tăng mạnh. Nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, và các nước châu Á khác như Đài Loan, Nhật Bản, v.v. Trong đó. thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng gần 40% năm 2017, 2018 và trên 50% trong 6 tháng đầu năm 2019, còn nhập khẩu từ thị trường Hàn Quốc lần lượt là gần 14% và gần 16% (xem bảng 1 và hình 2). Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do nguồn nguyên phụ liệu dệt may từ Trung Quốc khá đa dạng, giá cả lại r hơn các thị trường khác. Tuy nhiên Trung Quốc hiện nay không phải là nước thỏa mãn quy tắc xuất xứ cộng gộp theo EVFTA. Đây là hạn chế lớn của ngành dệt may Việt Nam khi quá phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ Trung Quốc mà chưa có xu hướng chuyển sang các thị trường phù hợp với EVFTA như thị trường EU, thị trường Hàn Quốc hay sử dụng các nguồn cung nguyên liệu trong nước. 410 Bảng 2.8: Tình hình nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày của Việt Nam từ các thị trường năm 2017 và 2018 Thị trƣờng Năm 2017 Năm 2018 6 tháng đầu năm 2019 2018 so với 2017 (%) Tổng kim ngạch Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) 5.428.510.825 100 5.709.371.037 100 6.564.958.938 100 5,17 Trung Quốc 2.046.795.859 37,71 2.196.929.068 38,48 3.791.778.194 57,76 7,34 Hàn Quốc 753.953.673 13,89 771.020.396 13,5 1.042.009.500 15,87 2,26 Thị trường khác 1.929.806.107 48,4 2.078.947.733 48,02 1.731.171.244 26,37 7,73 Nguồn: Tác giả tổng hợp và tính toán từ số liệu của tổng c c Hải quan ( giay-hang-dau-cua-viet-nam-nam-2018) Nguồn: Tác giả tổng hợp và tính toán từ số liệu của tổng c c Hải quan Hình 2: Cơ cấu thị trường nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày của Việt Nam năm 2017, 2018 4.1.2. Về nguồn nguyên liệu trong nước Theo đánh giá của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, cho đến hết năm 2019, diện tích trồng bông của Việt Nam là khoảng 1 nghìn hecta, sản lượng bông hàng năm đạt 1,38 nghìn tấn. Sản lượng này chỉ đáp ứng được khoảng 1% nhu cầu của thị trường. Ngành bông, xơ ở Việt Nam kém phát triển là do nước ta không có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho trồng trọt cây công nghiệp phục vụ dệt may và không chú trọng đầu tư vào trồng bông và sản xuất xơ. [VALUE] [VALUE] [VALUE] 2017 Trung Quốc Hàn Quốc Thị trường khác 411 Trồng bông chịu tác động nhiều bởi thời tiết, khí hậu, và cũng là ngành rất thâm dụng đất đai, vì thế dẫn tới việc diện tích trồng bông ở Việt Nam vẫn còn thấp và còn rất manh mún. Bên cạnh đó, kinh nghiệm, trình độ của nông dân trong việc thâm canh chưa tốt, hệ thống thủy lợi hỗ trợ không có, chủ yếu phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, sản xuất thu hoạch chủ yếu bằng tay, chưa có máy móc hỗ trợ nên chất lượng bông của nước ta thấp dẫn tới giá bán không cạnh tranh so với các nước khác. Nguyên nhân thứ hai khiến ngành dệt may thiếu hụt nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước là do hàng loạt địa phương đang từ chối các dự án dệt nhuộm vì lo ngại ảnh hưởng môi trường. Nhưng tới nay công nghệ đã khác, cùng với đó quy định của các FTA thế hệ mới như EVFTA và CPTPP rất đề cao công tác bảo vệ môi trường. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện môi trường thì sẽ không có đơn hàng. Do đó, doanh nghiệp rất cần sự vào cuộc hiệu quả của Nhà nước trong hoạch định chiến lược phát triển các khu công nghiệp theo chuỗi khép kín của ngành dệt may.Vấn đề nguồn cung nguyên liệu là thách thức không chỉ của ngành dệt may mà còn của nhiều ngành hàng khác. Nếu không bảo đảm quy tắc xuất xứ thì hàng hóa Việt Nam không được hưởng ưu đãi từ EVFTA. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp để giải quyết vấn đề môi trường trong dệt, nhuộm, chứ không nên có quan điểm từ chối các dự án này. Còn về phía doanh nghiệp, để có thể trụ vững và mở rộng thị phần tại thị trường EU, doanh nghiệp dệt may Việt Nam không có cách nào khác là phải chủ động tìm hiểu thấu đáo về quy chuẩn, tiêu chuẩn pháp lý thị trường EU. Mặc dù, ngành sợi Việt Nam trong những năm gần đây phát triển có phần thuận lợi hơn, đó là do ngành đã tận dụng được lợi thế về chi phí đầu vào thấp, cụ thể là chi phí nhân công và tiền thuê đất. Đồng thời, nhu cầu sợi của thị trường thế giới có xu hướng tăng nhanh. Lượng sợi sản xuất trong nước chủ yếu được xuất khẩu sang các nước như Trung Quốc, Đài Loan, trong khi các doanh nghiệp dệt Việt Nam lại phải nhập khẩu nguyên liệu sợi từ nước ngoài. Điều đó có thể được coi là nghịch lý và chỉ được khắc phục khi có những giải pháp phù hợp nâng cao chất lượng sợi sản xuất trong nước. Thực tế những năm qua cho thấy, sợi sản xuất tại Việt Nam chưa đa dạng về chủng loại, chất lượng còn thấp và chủ yếu dùng vào sản xuất các sản phẩm có chất lượng trung bình nên chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp dệt may sản xuất sản phẩm cao cấp, đòi hỏi nhiều loại nguyên liệu sợi khác nhau với các loại nguyên liệu đầu vào đặc biệt, thiết bị sản xuất hiện đại. Bông, xơ, sợi đều là các nguyên phụ liệu quan trọng trong sản xuất vải. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chỉ dừng lại ở khâu sản xuất sợi, rất ít các doanh nghiệp trong nước chủ chương sản xuất vải để phục vụ nhu cầu của ngành dệt may. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ tiềm lực về tài chính để xây dựng nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất. Hiện nay, mô hình tại các doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng mạnh tại Việt Nam là thực hiện sản xuất khép kín từ việc tạo nguồn nguyên liệu 412 đến khâu thành phẩm cuối cùng để xuất khẩu. Trên thực tế, để đón đầu cơ hội hưởng ưu đãi thuế xuất khẩu sang Liên minh Châu Âu, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã đẩy mạnh đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu tại Việt Nam. 4.2. Đánh giá khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong Hiệp định EVFTA của Việt Nam Như nội dung phân tích trên, quy định xuất xứ từ vải của EVFTA chính là thách thức lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam khi các doanh nghiệp vẫn đang phải nhập phần lớn nguyên phụ liệu để phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Đối với lĩnh vực may mặc, hình thức sản xuất hàng may mặc tại Việt Nam chủ yếu là gia công. Như vậy, may xuất khẩu lệ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu, trong đó chủ yếu không phải từ các nước thành viên của EVFTA hay Hàn Quốc là nước duy nhất đáp ứng quy tắc xuất xứ về nhập khẩu nguyên liệu dệt may, tỷ trọng chỉ chiếm dưới 16% tính đến giữa năm 2019. Nguồn cung nguyên phụ liệu của Việt Nam hiện nay còn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó nguồn cung trong nước thì lại yếu, không đáp ứng được tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU nên chủ yếu xuất khẩu sang các nước khác như: Trung Quốc, Đài Loan, Đó là hạn chế lớn nhất đối với ngành dệt may Việt Nam khi tìm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU trong bối cảnh EVFTA được thực thi. Đối với hàng dệt may có xuất xứ cộng gộp Đối với hàng dệt may có xuất xứ cộng gộp, nguồn nguyên liệu vải nhập khẩu đáp ứng được quy tắc xuất xứ vẫn còn thấp. Hiện tại, Hàn Quốc là nước duy nhất áp dụng được quy tắc xuất xứ cộng gộp. Hàn Quốc hiện cũng là thị trường nhập khẩu vải cũng như nguyên phụ liệu lớn của nước ta trong những năm gần đây, chỉ xếp sau Trung Quốc về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, vải nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tỷ trọng quá lớn trong kim ngạch nhập khẩu vải của Việt Nam, chiếm trên 50%. Trong khi đó, thị trường Hàn Quốc chỉ chiếm dưới 16%. Dự kiến khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU chính thức có hiệu lực thì nguồn cung nguyên phụ liệu từ Hàn Quốc cũng sẽ tăng để đáp ứng nhu cầu của thị trường EU. EU là thị trường rất lớn, tiềm năng vẫn chưa được khai thác sâu, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự chuẩn bị kĩ lư ng từ khâu nguyên liệu đầu vào đến chất lượng hàng hóa. Có như vậy, hàng dệt may Việt Nam mới có khả năng thâm nhập sâu và có lợi thế cạnh tranh trên thị trường EU. Đối với hàng dệt may có xuất xứ thuần túy Đối với hàng dệt may có xuất xứ thuần túy, nguồn nguyên liệu vải trong nước hiện chưa đáp ứng được nhu cầu và chất lượng của thị trường. Ngành công nghiệp sản xuất vải may mặc của Việt Nam vẫn chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu chỉ dừng lại ở khẩu sản xuất sợi, rất ít doanh nghiệp có đủ tiềm lực tài chính để xây dựng nhà máy với công nghệ sản xuất vải đủ tiêu chuẩn phục vụ ngành công nghiệp may mặc. Các doanh nghiệp sản xuất vải thì chưa đáp ứng được chất lượng sản xuất hàng may mặc. Đây là một nhược điểm lớn 413 trong việc cung ứng nguyên phụ liệu dệt may đáp ứng quy tắc xuất xứ của EVFTA của các doanh nghiệp Việt Nam. Có thế thấy, cơ hội khi EVFTA có hiệu lực là rất lớn đối với ngành dệt may, nhưng khả năng đáp ứng của doanh nghiệp Việt Nam thì còn hạn chế, chưa thể khai thác tối đa tiềm năng của thị trường, đặc biệt là đáp ứng quy định xuất xứ để tận dụng ưu đãi thuế quan, đẩy mạnh xuất khẩu. Hiện nay, một số các doanh nghiệp FDI từ nước ngoài đang có xu hướng đầu tư vào Việt Nam trong ngành dệt may với mô hình sản xuất đa dạng. Dự kiến đây sẽ là một nguồn cung lớn nguyên liệu vải để phục vụ xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể để tăng nguồn cung ứng nguyên phụ liệu cần thiết cho ngành dệt may, nhằm đáp ứng tốt các quy tắc xuất xứ của EVFTA. Có như vậy thì Việt Nam mới khai thác triệt để lợi thế mà EVFTA đem lại cho ngành dệt may Việt Nam. 5. Kết luận và kiến nghị Cho đến nay, trở ngại lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường EU là khâu nguyên liệu đầu vào do chưa đáp ứng được quy tắc xuất xứ trong EVFTA. Cụ thê là nguồn nguyên liệu vải chủ yếu nhập từ Trung Quốc, nguyên liệu vải trong nước thì chưa đảm bảo chất lượng do công nghệ còn lạc hậu, chưa đồng bộ. Chính vì thế, trước thềm EVFTA có hiệu lực, Việt Namcần có những biện pháp cụ thể nhằm thay đổi cơ cấu nguồn nguyên phụ liệu sao cho phù hợp với quy tắc xuất xứ của EVFTA, kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường EU. Thứ nhất là nhóm giải pháp nâng cao nguồn cung trong nước. Trước hết, Cần hoàn thiện quy hoạch đồng bộ các vùng trồng các loại cây công nghiệp phục vụ ngành công nghiệp dệt may như cây bông, cây đay, v.v. Bên cạnh đó, hệ thống cung cấp giống, vật tư, hướng dẫn kỹ thuật canh tác và thu mua sản phẩm từ các loại cây công nghiệp dệt may cần được xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng tiêu chuẩn, có kế hoạch thu mua đồng bộ trong từng vùng cũng như cả nước. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt và nâng cao khả năng đáp ứng tiêu chuẩn, quy tắc xuất xứ của EVFTA. Tiếp theo là khuyến khích người dân trồng cấy các loại cây công nghiệp phục vụ ngành dệt may thông qua chính sách hỗ trợ vốn, kỹ thuật và đảm bảo bao tiêu đầu ra. Đồng thới, các tổ chức khuyến nông cần tăng cướng hướng dẫn, mở các lớp đào tạo người dân trồng có quy hoạch và đúng kỹ thuật. Cuối cùng là hoàn thiện và triển khai xây dựng các khu liên hợp sản xuất dệt may, các nhà máy sản xuất sợi, vải đạt tiêu chuẩn, có hệ thống kỹ thuật công nghệ hiện đại phù hợp với quy định của EVFTA và CPTPP, trước mắt là thông qua thu hút FDI từ các nhà đầu tư từ các quốc gia có lợi thế như Hàn Quốc, EU. 414 Để góp phần thực hiện thành công các biện pháp trên, các doanh nghiệp và người dân Việt Nam cần nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của việc đảm bảo các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, môi trường khi tham gia sản xuất hàng dệt may theo quy định của các thị trường thành viên EVFTA. Thứ hai là nhóm giải pháp chuyển hướng nguồn nhập khẩu nguyên phụ liệu. Các cơ quan quản lý của ngành Công thương và Hiệp hội Dệt may Việt Nam cần tư vấn và hỗ trợ tìm kiếm đối tác giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc trong nước chuyển hướng nhập khẩu nguồn nguyên phụ liệu từ Trung Quốc dần sang nhập khẩu nguyên phụ liệu từ EU, Hàn Quốc để đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ trong EVFTA. Đồng thời, các doanh nghiệp cần chủ động tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm các nhà môi giới, các doanh nghiệp xuất khẩu vải từ EU, Hàn Quốc để nhập khẩu vải. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Trần (2019), ―Ngành Dệt may Việt Nam: Từng bước chủ động nguồn nguyên liệu‖, Thời báo Ngân hàng điện tử, https://thoibaonganhang.vn/nganh-det-may-viet-nam- tung-buoc-chu-dong-nguon-nguyen-lieu-90362.html (Truy cập 05/12/2019). 2. Tổng cục Hải quan (2020), Thống kê xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam, https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/SoLieuThongKe.aspx?&Group=S%E1 %BB%91%20li%E1%BB%87u%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA (Truy cập 02/01/2020). 3. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2016), Tóm lược Hiệp định Tương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA), (Truy cập ngày 25/12/2019). 4. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2017), EVFTA và ngành dệt may Việt Nam, lieu/2 (Truy cập ngày 25/12/2019). 5. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2019), ―EVFTA tạo cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam khi quan hệ với EU‖, trong-quan-he-voi-eu (Truy cập ngày 25/12/2019). 6. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2018), Quy tắc xuất xứ trong các FTA mà Việt Nam là thành viên.
File đính kèm:
- quy_tac_xuat_xu_doi_voi_hang_det_may_theo_evfta_va_kha_nang.pdf