Quy luật ba giai đoạn phát triển trong triết học thực chứng của Auguste Comte
Quy luật ba giai đoạn phát triển được xem là cơ sở lý luận cơ bản, đồng thời cũng là
phương pháp nghiên cứu và trình bày trong toàn bộ hệ thống triết học thực chứng của A. Comte.
Ông cho rằng, từng cá nhân cho đến cộng đồng và ở hầu khắp mọi lĩnh vực của tri thức của nhân
loại đều trải qua ba giai đoạn phát triển: thần học hay hư cấu; siêu hình hay trừu tượng; và khoa học
hay thực chứng. Dù có những hạn chế nhất định so với sự tiến bộ tư tưởng của nhân loại, nhưng
quy luật ba giai đoạn của A. Comte là một trong những triết lý vĩ đại được xây dựng ở thế kỷ XIX.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Quy luật ba giai đoạn phát triển trong triết học thực chứng của Auguste Comte", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy luật ba giai đoạn phát triển trong triết học thực chứng của Auguste Comte
i ba giai đoạn thần học, siêu hình và thực chứng ở giai đoạn thần học. Giai đoạn này cũng như các giai đoạn khác, A. Comte không xác định thời gian bắt đầu và kết thúc cụ thể của nó, bởi ông nhận thấy rằng ở từng giai đoạn dường như đều có mầm mống của tư tưởng thực chứng. Theo đó, ông chỉ cho rằng nó bắt đầu cùng với thời điểm khởi đầu của nền văn minh nhân loại và phát triển đạt đến đỉnh điểm vào khoảng thế kỷ thứ XII, thời kỳ cực thịnh của các nhà nước tôn giáo ở Châu Âu. Theo ông, “Bái vật giáo là nền tảng của triết học thần học, thần thánh hóa mọi thực thể hoặc hiện tượng, nó thu hút sự quan tâm của con người thời nguyên thủy, và nó vẫn có thể duy trì thông qua tất cả các biến đổi của nó cho đến giai đoạn cuối cùng (hiện đại)” [8, tr.547]. Từ đó, có thể thấy rằng, đối với A. Comte, bái vật giáo là hình thức đầu tiên của tư tưởng con người, bởi vì nó phù hợp với nhu cầu tinh thần của con người trong thời thơ ấu. Hơn nữa bái vật giáo cũng làm thoả mãn nhu cầu về mặt cảm xúc của người nguyên thủy khi mà ở thời điểm xúc cảm vượt lên trên so với lý trí. Từ bái vật giáo chuyển sang đa thần giáo trong giai đoạn thần học là một bước phát triển tự nhiên thuộc về bản chất của con người, theo A. Comte, bởi vì thuộc tính bẩm sinh của con người là có thể quan sát so sánh, trừu tượng và khái quát. Vì vậy theo lẽ đương nhiên, con người thời nguyên thuỷ đã dần quan sát thấy nhiều điểm tương đồng của các hiện tượng, từ đó đi đến sự khái quát và tìm kiếm sự liên quan đến những quan niệm thần học tương ứng và đây chính là nguyên nhân đưa đến sự biến đổi từ bái vật giáo sang đa thần giáo [8, tr.558-559]. A. Comte cũng cho rằng: “Trong số các giai đoạn của triết lý thần học đều là tạm thời, thì đa thần giáo là giai đoạn bền vững nhất; trong khi nhất thần giáo là ngắn nhất để chấm dứt hoàn toàn chế độ thần học, nó được trang bị tốt nhất để hướng dẫn nền văn minh của nhân loại thông qua sự chuyển đổi từ cổ đại sang triết học hiện đại” [8, tr.562]. Theo A. Comte, có ba hình thức của đa thần giáo thời cổ, đầu tiên là thần quyền đa thần (theocratic polytheism) thể hiện ở chế độ thần quyền của Ai Cập, nơi nó nhờ vị trí địa lý ưu đãi cho sự phát triển trí tuệ và đẳng cấp tăng lữ sở hữu độc quyền về quyền lực và trí tuệ. Thứ hai và thứ ba là quân đội đa thần (military polytheism) ở Hy Lạp và La Mã [9, tr.589]. Chế độ quân đội đa thần Hy Lạp đại diện cho sự phát triển rực rỡ của trí tuệ con người, ở chế độ này xuất hiện một tầng lớp những nhà tư tưởng độc lập không thuộc tầng lớp tăng lữ, tầng lớp chính giữ vai trò phát triển những tư tưởng tinh hoa của nhân loại. Ở chế độ này, A. Comte cho rằng, khoa học toán học và Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2019 40 thiên văn cũng đã đạt được một số mặt thực chứng của nó [8, tr.593]. Đối với chế độ quân đội đa thần La Mã, thể hiện đầy đủ nhất của một chế độ chính trị dựa vào quân đội, tất cả các mặt của đời sống đều được tổ chức cho một mục tiêu của một đế chế có tham vọng bành trướng toàn cầu. Tin rằng không có gì ngẫu nhiên trong lịch sử, tất cả mọi thứ đều theo một thiết kế đã được định trước nhất định, nó được tiến hoá từ một tổ chức trước đó, vì thế A. Comte cho rằng, nhất thần luận cũng được hình thành trên đà phát triển của đa thần giáo Hy Lạp và La Mã. Rõ ràng rằng, đối với trường hợp của Hy Lạp, do người Hy Lạp quá mệt mỏi trước sự rối loạn và tính khí thất thường của các vị thần trong thần thoại của họ nên họ có xu hướng giảm dần các đấng siêu nhiên thành một vị thần trung tâm. Đối với trường hợp của La Mã, do yêu cầu cần thiết phải thay thế nhiều giáo phái dị giáo bằng một tôn giáo chung, đông nhất để có thể thu hút mọi đối tượng. Sự phát triển và thành công của nhất thần giáo được thể hiện ở các nhà nước Công giáo của Châu Âu thế kỷ thứ XII, sự thành công quan trọng là những giá trị về mặt đạo đức. Theo ông, cơ cấu tổ chức và hệ thống đạo đức của chính thể thực chứng về sau này sẽ cơ bản giống như Công giáo, nhưng sẽ được thành lập trên cơ sở của trí tuệ cao hơn và không có tình trạng phân chia giữa triết học tự nhiên và đạo đức [11, tr.648]. 3.2. Giai đoạn siêu hình A. Comte cho rằng: “Giai đoan siêu hình chỉ là một biến tướng của giai đoạn thần học, tư tưởng tin rằng, thay vì vin vào một đấng siêu nhiên, thì lại vin vào sức mạnh trừu tượng, các thực thể thật (nghĩa là, trừu tượng được nhân vị hoá hay còn gọi là siêu nghiệm) vốn có trong mọi tồn tại, có khả năng sản sinh ra mọi hiện tượng. Những gì được gọi là giải thích các hiện tượng thì, trong giai đoạn này, chỉ là gán cho nó một thực thể tương ứng với nó” [8, tr.26]. A. Comte phân giai đoạn siêu hình thành hai thời kỳ chính: thứ nhất, từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XV, đây là giai đoạn nổi lên các “phong trào phê phán mang tính tự phát” [8, tr.640]; thứ hai từ thế kỷ XVI cho đến hết thế kỷ thứ XVIII, đây là thời kỳ mà các tư tưởng mang tính phê bình và cách mạng trở nên quan trọng, nó giúp cho việc thủ tiêu hoàn toàn hệ thống cũ. “Trong đó sự vô tổ chức đã diễn ra dưới ảnh hưởng ngày càng tăng của những học thuyết tiêu cực và mở rộng dần dần sang các ý tưởng xã hội, và chỉ ra xu hướng đổi mới của xã hội hiện đại” [8, tr.640]. A. Comte cho rằng, thời kỳ thứ hai này có hai hình thức tôn giáo giữ địa vị thống trị là Tin lành (Protestantism) và Tự nhiên thần luận (Deism). Thời kỳ từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII là giai đoạn Tin lành thống trị với xu hướng tự do tư tưởng và hành động, nó trở thành nền tảng phủ định tư tưởng của hệ thống siêu hình. A. Comte chia thời kỳ này thành ba giai đoạn: giai đoạn của học thuyết Luther, giai đoạn của học thuyết Calvin và giai đoạn của học thuyết Socinus nhằm chống lại học thuyết ba ngôi (Antitrinitarianism, Nontrinitarianism) [8, tr.664-665]. Thời kỳ từ giữa thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XVIII là giai đoạn tự nhiên thần luận giữ vai trò thống trị. Ở đây, A. Comte cũng chia thời kỳ này thành ba giai đoạn: (1) Giai đoạn của những tư tưởng phản đối lại nhất thần giáo đã được hệ thống hoá vào giữa thế kỷ XVII, được tuyên truyền vào đầu thế kỷ XVIII và áp dụng nó vào trong chính trị Nguyễn Thành Nhân 41 nửa cuối thế kỷ XVIII; (2) Giai đoạn thống trị về mặt tư tưởng của các văn sĩ và các luật sư, họ như là những người lãnh đạo của xu hướng cách mạng này. Họ chính là những người tuyên truyền tích cực mở đường cho tinh thần giải phóng. A. Comte cho rằng “Voltaire chính là một trong những tuyên truyền viên tốt nhất” [8, tr.653]. Ngoài ra ông còn đề cao vai trò của Diderot và Rousseau. Đặc biệt là Diderot được A. Comte rất ngưỡng mộ, bởi nỗ lực của Diderot muốn thống nhất các xu hướng trí tuệ khác nhau của thời đại trong bộ Bách khoa toàn thư. Ông cho rằng, với công trình bộ Bách khoa toàn thư do Diderot chủ biên đã “đóng vai trò là trung tâm cho những nỗ lực khác biệt nhất, và là cống hiến cho sự xuất hiện một hệ thống triết học để tổng hợp những suy đoán còn rời rạc” [8, tr.679]; (3) Giai đoạn của chủ nghĩa vô thần. Theo M.Pickering, “Mặc dù A. Comte thừa nhận rằng chủ nghĩa vô thần là một giai đoạn cuối không thể thiếu để chuẩn bị cho giai đoạn thực chứng. Tuy nhiên, theo ông chủ nghĩa vô thần là một triết lý hoàn toàn tiêu cực, nó không có sự đóng góp của niềm tin tôn giáo vào sự tiến hoá chung của nhân loại. Và hơn nữa người vô thần thường tin vào một loại phiếm thần luận siêu hình, nó khác xa tinh thần của chủ nghĩa thực chứng” [11, tr.654]. 3.3. Giai đoạn thực chứng Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của lịch sử tư tưởng nhân loại, mục đích cuối cùng là nhằm tái thiết một trật tự xã hội ổn định và phát triển. A. Comte cho rằng: “Trong giai đoạn thực chứng, tư tưởng con người đã từ bỏ việc sau khi tìm kiếm một cách vô ích các khái niệm tuyệt đối, về nguyên nhân đầu tiên và mục đích cuối cùng của vũ trụ hay những nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng, mà chỉ chú tâm vào chính những hiện tượng đó để nghiên cứu về những quy luật của chúng - đó là những tương quan bất biến giữa chúng” [8, tr.26]. Theo A. Comte, giai đoạn thực chứng bắt đầu từ thời cổ đại, “đặc biệt là kể từ những công trình nghiên cứu của Aristotle và trường phái Alexandria và sau thời kỳ giới thiệu khoa học tự nhiên vào Tây Âu của người Ả Rập” [8, tr.29]. Nhưng nếu xét một cách hợp lý hơn thì nó bắt đầu từ thế kỷ thứ XVI “khi tư tưởng nhân loại trở nên xao động bởi châm ngôn tri thức là sức mạnh của Bacon, các quan niệm của Descartes và những khám phá của Galileo”[8, tr.29]. Để đạt đến được giai đoạn thực chứng thật sự thì bốn bộ phận cấu thành nền văn minh hiện đại phải lần lượt đạt đến trình độ thực chứng của nó trước. “Công nghiệp đến đầu tiên trong thời hiện đại và giúp đỡ để tiếp sinh lực cho những bộ phận còn lại mà đầu tiên là nghệ thuật, sau đó là khoa học và cuối cùng là triết học” [11, tr.655]. A. Comte tin rằng, chính công nghiệp là nền tảng của nền văn minh hiện đại vì vậy nó phải được phát triển đầu tiên hết, hơn nữa công nghiệp liên quan đến những gì gọi là dễ dàng nhất, cụ thể nhất và đáp ứng được những nhu cầu vật chất thực tế của đa số người dân. Kế đến là nghệ thuật, bởi sau nhu cầu vật chất thì vấn đề hợp lý phải là nhu cầu nghệ thuật. 4. Kết luận Quan điểm của A. Comte về sự phát triển của tư tưởng nhân loại trải qua ba giai đoạn từ thần học, siêu hình rồi đến thực chứng, Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2019 42 tồn tại như là một quy luật, do đó ông gọi nó là quy luật về ba giai đoạn. Để chứng minh cho sự tồn tại của quy luật này, trong Giáo trình triết học thực chứng, ông còn chỉ ra quy luật này nó hiện diện trong từng cá nhân cho đến cộng đồng và ở hầu khắp mọi lĩnh vực của tri thức con người, trong mỗi khoa học, kể cả triết học, thậm chí nó “cũng ứng nghiệm cả trong lĩnh vực chính trị” [5, tr.288]. Theo tác giả Lưu Phóng Đồng,“sự phát triển trí tuệ của một cá nhân là một loại minh chứng đối với quy luật đó” [1, tr.89]. A. Comte cho rằng, nếu một người nào đó có thể sống mà không chết sớm cũng đều trải qua ba giai đoạn phát triển trí tuệ tương ứng là thần học, siêu hình và thực chứng, nó không chỉ là một minh họa mà còn là một bằng chứng gián tiếp của quá trình phát triển tư tưởng con người nói chung. Ông viết: “Bây giờ, mỗi người chúng ta đều nhận thức được rằng, nếu anh ta nhìn lại lịch sử của chính mình, rằng anh ta là một nhà thần học trong thời thơ ấu của mình, một nhà siêu hình học trong thời thanh thiếu niên của mình và một nhà triết học tự nhiên trong thời trưởng thành. Tất cả mọi người, khi người ấy có một độ tuổi nhất định thì họ có thể xác minh điều này cho chính mình” [8, tr.27]. Như vậy, có thể thấy rằng, đối với A. Comte thế giới cổ đại và thời trung cổ, đại diện cho giai đoạn thần học, trong khi đại diện cho thời kỳ khai sáng là giai đoạn siêu hình, còn ở thời đại của ông chính là sự khởi đầu của giai đoạn thực chứng. Mặc dù ông đưa ra nhiều dẫn chứng để chứng minh, nhưng đó chỉ là một số ví dụ miêu tả mang tính hiện tượng chưa phản ánh chính xác quy luật của sự phát triển. Điều này cho thấy quy luật ba giai đoạn phát triển của A. Comte đề xuất có sự gượng ép một cách nhất định, mang tính phiến diện và duy tâm [6, tr.144]. Mặc dù quy luật ba giai đoạn phát triển của A. Comte có những hạn chế nhất định, khá xa lạ và trở nên lạc hậu so với sự tiến bộ của tư tưởng nhân loại ngày nay, nhưng đây là một trong những tư tưởng triết lý vĩ đại được xây dựng ở thế kỷ XIX và được giới học thuật thừa nhận. Thông qua đó ông đã đề xuất một cách nhìn mới về tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại và xã hội loài người, khẳng định quá trình phát triển không ngừng từ thấp đến cao. Thông qua cách trình bày học thuyết, với việc chỉ ra trong từng giai đoạn tồn tại bên trong nó những tư tưởng đối lập, đấu tranh và kế thừa lẫn nhau, cho thấy lý luận về ba gia đoạn phát triển của A. Comte đã đến gần với phép biện chứng hơn. Nếu xem xét một cách chi tiết, một số luận điểm do ông đề xuất cho đến nay vẫn còn giá trị. Như việc, ông cho rằng, người trí thức hiện đại vẫn có thể trở lại thời kỳ bái vật giáo để đáp ứng nhu cầu tinh thần của họ, khi họ hi vọng hay sợ hãi, họ có xu hướng nhân cách hoá và tôn thờ những vật thể mà nó thu hút được tình cảm của họ. Về điểm này A. Comte là một trong những nhà tư tưởng kiệt xuất của thời đại, khi ông chỉ ra rằng bái vật giáo không chỉ là hình thức riêng có của thời đại nguyên thuỷ, mà còn hiện diện ở cả thời hiện đại, nó không phải lúc nào cũng đại diện cho một loại ý thức sai hay một loại tư duy phi lôgíc. Có thể thấy rằng, bất kỳ một học thuyết nào đều có những giá trị và hạn chế, vì vậy việc nghiên cứu và tìm ra những giá trị của nó là một Nguyễn Thành Nhân 43 yêu cầu cần thiết đối với công tác nghiên cứu lý luận hiện nay. Tài liệu tham khảo [1] Lưu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. [2] Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3] Morichère, B. (2010), Triết học Tây phương từ khởi nguyên đến đương đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. [4] Mai Sơn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức, Hà Nội. [5] Stumpt, S. E. (2004), Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb Lao động, Hà Nội. [6] Đinh Ngọc Thạch, Nguyễn Trọng Nghĩa, Doãn Chính (2013), Các khuynh hướng chủ đạo trong tiết học phương Tây hiện đại, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. [7] Wahl, J. (2006), Lược sử triết học Pháp, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. [8] Comte, A. (1856), The Positive Philosophy, Canvil Blanchard, New York. [9] Copleston, F. C. (1993), History of Philosophy, Vol. IX, Doubleday, New York. [10] Mazlish, B. (2006), “A. Comte”, Encyclopedia of Philosophy, Vol.2, Thomson Gale, New York. [11] Pickering, M. (1993), A. Comte: An Intellectual Biography, Vol.1, Cambridge University Press, Cambridge. [12] Pickering, M. (2009), A. Comte: An Intellectual Biography, Vol.2, Cambridge University Press, Cambridge. [13] Schmaus, W. (1982), “A reappraisal of Comte’s Three-states Law”, History and Theory, 21(2). [14] Bourdeau, M. (2014), “A. Comte”, The Stanford Encyclopedia of Philosophy. https://plato.stanford.edu/entries/comte/, truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2019. [15] 10a.html, truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2019. [16] truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2019 17] auguste/plan_des_travaux/plan_des_travaux.ht ml, truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2019. [18] https://vi.wikipedia.org/wiki/Auguste_Comte. [19] https://en.wikipedia.org/wiki/Auguste_Comte. [20] https://fr.wikipedia.org/wiki/Auguste_Comte.
File đính kèm:
- quy_luat_ba_giai_doan_phat_trien_trong_triet_hoc_thuc_chung.pdf