Quản lý tai biến y khoa trong y học bức xạ
Đã từ lâu, bức xạ ion hoá đã được sử dụng rất
hiệu quả trong y tế. Xạ trị, chẩn đoán X-quang
và y học hạt nhân đã trở thành những công cụ
quan trọng không thể thay thế trong chẩn đoán
và điều trị bệnh. Nhiều bệnh nhận đã được chẩn
đoán bệnh sớm và được chữa khỏi nhờ những kỹ
thuật này. Ở Việt Nam bức xạ ion hoá dưới dạng
máy phát tia X và các kim Radium đã được đưa
vào sử dụng từ những năm 30-40 của thế kỷ trước
tại Bệnh viện Radium Đông Dương trước đây và
nay là bệnh viện K Trung ương. Hàng năm theo
UNSCEAR [1] trên toàn thế giới có khoảng 3,6 tỷ
lượt người làm xét nghiệm chẩn đoán x-quang.
Tại Hội nghị quốc tế “Bảo vệ chống bức xạ trong
y tế” [2] đã nhận định: hàng ngày có khoảng 10
triệu lượt người khám và chữa bệnh sử dụng bức
xạ ion hoá. Chính sự gia tăng sử dụng bức xạ ion
hoá trong thăm khám và điều trị bệnh cùng với
những thiết bị tiên tiến có độ phức tạp cao đã
làm cho liều bệnh nhân tăng lên đáng kể trong
thời gian qua. Đặc biệt là khi chụp cắt lớp (CT)
và thực hiện thủ thuật X- quang can thiệp. Mặt
khác, lỗi và tai biến trong chuẩn đoán X-quang
và xạ trị y tế là khó tránh khỏi. Do vậy, năm 2012,
Cơ quan Năng lượng Quốc tế IAEA và Tổ chức Y
tế Thế giới WHO đã thống nhất đưa ra lời kêu gọi
hành động chung Bonn [3] nhằm: a) Tăng cường
an toàn và bảo vệ chống bức xạ cho bệnh nhân và
nhân viên y tế nói chung; b) Phấn đấu đạt lợi ích
cao nhất với rủi ro ít nhất có thể cho bệnh nhân
bằng cách sử dụng an toàn và hợp lý bức xạ ion
hoá trong y tế; c) Hỗ trợ tích hợp đầy đủ các biện
pháp bảo vệ chống bức xạ vào hệ thống chăm sóc
sức khoẻ; d) Giúp nâng cao đối thoại với bệnh
nhân và công chúng về những lợi ích và rủi ro do
bức xạ mang lại; đ) Tăng cường tính an toàn và
chất lượng của các thủ tục bức xạ trong y tế; và e)
Thúc đẩy xây dựng văn hoá an toàn trong chiếu
xạ y tế, khuyến khích các quốc gia công nhận vật
lý y khoa là một ngành nghề độc lập trong khối
chăm sóc sức khoẻ đảm nhận trách nhiệm an
toàn bức xạ trong chiếu xạ y tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý tai biến y khoa trong y học bức xạ
, nhiều thành tựu và sáng chế mới đã được áp dụng vào nền xạ trị hiện đại ví dụ những kỹ thuật mới như biến điệu cường độ IMRT, biến điệu thể tích VMRT và xạ trị dẫn hình ảnh IGRT. Những kỹ thuật này nếu thực hiện đầy đủ theo các quy trình kỹ thuật và có một đội ngũ cán bộ giầu kinh nghiệm thì kết quả điều trị lâm sàng sẽ đem lại nhiều hứa hẹn [13]. Các kỹ thuật THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 41Số 64 - Tháng 9/2020 hiện đại này cũng làm cho quy trình xạ trị trở nên phức tạp hơn rất nhiều, đòi hỏi các cán bộ vật lý y khoa giầu kinh nghiệm tiến hành các phép thử và kiểm chứng lại các đặc trưng của thiết bị vì tính phức tạp của chúng. Trong xạ trị hiện đại hệ thống ghi nhận (Record) và hệ thống xác minh (Verify) được sử dụng nhiều hơn do đó chúng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn [14]. Mặt khác liều trên 1 lần xạ tuy được phân ra làm nhiều trường như thường rất lớn do vậy một sai sót nhỏ cũng có thể gây tổn hại lớn cho bệnh nhân [15]. 2.3 Chia sẻ thông tin – biện pháp tích cực giảm thiểu lỗi và tai biến trong chẩn đoán hình ảnh và xạ trị. Lỗi và tai biến trong y tế là không thể tránh khỏi. Lỗi trong chẩn đoán X-quang và xạ trị lại càng không nằm ngoại lệ. Có lỗi do chủ quan, có lỗi do khách quan. Cái chính là chúng ta ứng xử với những tai biến ấy như thế nào. Các lỗi về giải thích và đọc kết quả dựa trên hình ảnh là các lỗi các bác sĩ thường phạm phải vì họ cũng là con người[16]. Không phải bất kỳ lý do giải thích nào cho bệnh nhận cũng có thể hiểu được[17]. Những lỗi về kỹ thuật chúng ta có thể khắc phục bằng các biện pháp kỹ thuật, hành chính và nâng cao nghiệp vụ thông qua chương trình nội kiểm và ngoại kiểm (QA/QC). Còn lỗi do nhận thức của con người khó hơn. Một trong những giải pháp quan trọng để giảm thiểu lỗi và tai biến trong chẩn đoán x- quang và xạ trị là chia sẻ thông tin. Những lợi ích từ việc chia sẻ thông tin sau khi xuất hiện lỗi là [17]: tránh tái lập các lỗi và tai biến tương tự; tôn trọng quyền tự quyết của bệnh nhân, gia tăng mối quan hệ giữa bác sĩ với bệnh nhân; duy trì niềm tin của bệnh nhân đối với tính trung thực và tính toàn vẹn của hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Ngoài ra, việc chia sẻ thông tin có thể ngăn ngừa được những quan niệm sai lầm mà bệnh nhân có thể nghĩ về những bất lợi gây ra đối với họ; tạo điều kiện cho sự đồng thuận có hiểu biết về chăm sóc trong tương lai. Một nền văn hóa hỗ trợ chia sẻ lỗi và giao tiếp cởi mở giữa bác sĩ và bệnh nhân cũng sẽ hỗ trợ xây dựng nền văn hóa an toàn trong bệnh viện, thông qua sự thấu hiểu ngày một tăng và quyền sở hữu các lỗi mà nhân viên y tế mắc phải. [18] đã đưa ra một dẫn chứng khá thuyêt phục là trường Đại học Michigan đã giảm được 50% chi phí pháp lý kể từ khi chính sách chia sẻ thông tin về lỗi được thiết lập đầy đủ 5 năm trước đó. Số lượng khiếu nại cũng vì thế mà giảm theo. Lý do gây trở ngại trong việc chia sẻ, cở mở thông tin về lỗi xảy ra trong chẩn đoán X-quang và xạ trị là: sợ dính líu đến kiện tụng; theo truyền thống, người ta thường che đậy các lỗi do mình gây ra sẽ làm tổn thương bệnh nhân trong chẩn đoán và điều trị; nhiều quy định của bệnh viện cản trở việc trao đổi một cách thẳng thắn về các lỗi xảy ra với bệnh nhân. Một số tổ chức đã không chấp nhận tính minh bạch bởi vì họ lo ngại về khả năng mất uy tín, danh tiếng của họ có thể bị ảnh hưởng do thừa nhận công khai các lỗi. Trong quản lý rủi ro thường người ta không khuyến khích cở mở bộc lộ lỗi. Một số tổ chức khác lại coi việc chia sẻ thông tin là trách nhiệm duy nhất của bác sĩ và không thiết lập ra cơ chế nhằm tạo điều kiện chia sẻ thông tin minh bạch hoặc hỗ trợ làm giảm tình trạng căng thẳng của bác sĩ sau khi mắc lỗi [20]. Hơn nữa các nhân viên thực hành y tế còn phải chịu gánh nặng tâm lý về khả năng mất việc làm, gây ảnh hưởng nhiều tới đời sống của chính họ và gia đình họ [19]. Gần đây một số nghiên cứu, tuy còn hạn chế về quy mô nhưng đã cho thấy những tín hiệu tích cực của hệ thống chia sẻ thông tin về lỗi gây ảnh hưởng tới bệnh nhân [19]. Kết quả cho thấy số lượng các vụ kiện giảm, chi phí bồi thường cũng giảm theo. Nhiều Bang của Hoa kỳ, Úc và Anh đã phê duyệt các đạo luật quy định công khai các lỗi, tai biến trong y tế có ảnh hướng tới sức khoẻ bệnh nhân trong chẩn đoán X-quang và xạ trị [18, 19, 20]. Mục đích đầu tiên của của việc chia sẻ thông tin về các lỗi THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 42 Số 64 - Tháng 9/2020 và tai biến trong chẩn đoán X-quang và xạ trị là nhằm ngăn ngừa tái lặp các lỗi và tai biến trong y học bức xạ; tạo dựng niềm tin giữa bệnh nhân và những người cung cấp dịch vụ y tế; xây dựng cơ sở để phát triển và hiện thực hoá văn hoá an toàn trong bệnh viện lấy bệnh nhân làm trọng tâm. Việc ban hành Thông tư số 43/2018/TT-BYT hướng dẫn phòng ngừa sự cố y khoa trong khám và chữa bệnh của Bộ Y tế ở thời điểm này rất đáng được hoan nghênh. Bước đi này rất cần thiết để tạo dựng niềm tin của người bệnh đối với một nền y tế hiện đại và ngăn ngừa tái lặp các tai biến y khoa. Mặt khác, nó tạo dựng hành lang pháp lý cho những người thực hành y tế thoát khỏi những ám ảnh tâm lý không cần thiết khi xảy ra sự cố. Họ có được điều kiện chia sẻ kinh nghiêm qua các bài học được rút ra từ các sự cố đã từng xảy ra ở đâu đó. Việc quản lý sự cố y khoa được chia thành 3 cấp. Từ cấp cơ sở tới địa phương và cấp Trung ương. Một số nguyên tắc quản lý tai nạn y khoa có thể liệt kê như sau: • Giữ bí mật, ẩn danh tính của cá nhân hay của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh báo cáo sự cố y khoa. • Có bộ phận chuyên trách là đầu mối tiếp nhận thông tin và quản lý thông tin. • Tổng hợp, phân tích và lập báo cáo thông tin về sự cố và xử lý xự cố, đưa ra các biện pháp phòng ngừa, các bài học kinh nghiệm nhằm tránh tái diễn sự cố y khoa để nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, an toàn cho người bệnh và không nhằm mục đích khác. • Xây dựng quy trình, hướng dẫn khuyến khích tự nguyện báo cáo sự cố y khoa. • Hướng dẫn, quản lý báo cáo sự cố y khoa, ban hành cơ chế khuyến khích báo cáo tự nguyện và chế tài xử lý đối với các sự cố y khoa thuộc danh mục bắt buộc mà không được báo. Những nguyên tắc nêu trên xem ra có vẻ dễ thực hiện, tuy nhiên khi áp dụng vào thực tiễn, những quy định đó có thể sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Trong thực tế, luôn luôn tồn tại sự sung đột giữa bảo mật thông tin và quyền được biết các thông tin liên quan tới bệnh án của bệnh nhân; mặt khác tồn tại mâu thuẫn giữa “dấu tội” và “phơi tội”; Có những sự cố liên quan tới tính mạng con người nên việc bảo mật thông tin không tránh khỏi yêu cầu của pháp lý trước toà án. Như trên đã trình bày, cách tốt nhất là tạo dựng niềm tin giữa bệnh nhân và các nhân viên y tế, tạo kênh trao đổi thông tin cần thiết khi có sự cố xảy ra. Các nội dung này cần được bảo đảm bằng pháp luật. 2.4. Làm thế nào để nhận diện và phân loại sự cố bức xạ trong xạ trị, y học hạt nhân và chẩn đoán hình ảnh. Khác với như sự cố y khoa khác, sự cố bức xạ trong y học liên quan tới liều bức xạ. Để biết liều bức xạ mà bệnh nhân nhận được khi sự cố xảy ra thì cần phải có thiết bị và kiến thức nhất định. Điều này cản trở việc phát hiện, ngăn ngừa sự cố. Đôi khi sự cố xảy ra mà nhiều tháng sau mới thấy được tổn thương. Nhiều sự cố lại mang tính tiềm ẩn, hậu quả mà sự cố gây ra chỉ có thể ước tính ví dụ sự cố không gây ra hiệu ứng tất định, chỉ gây ra hiệu ứng ngẫu nhiên (khả năng gây ra bệnh ung thư sau này-hiệu ứng muộn). Hình 3 trình bày một vài hiệu ứng tất định khi bị chiếu quá liều trong x-quang căn thiệp và xạ trị. Hình 3a bệnh nhân bị tổn thương da trong x-quang can thiệp; hình 3b bệnh nhân bị bỏng da khi xạ trị. Do tính đặc thù của bức xạ ion hoá (không thể THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 43Số 64 - Tháng 9/2020 cảm nhận được bằng các giác quan), để nhận biết và ngăn ngừa sự cố y khoa trong y học bức xạ (không tính đến những sự cố liên quan tới lâm sàng như đọc sai kết quả, chẩn đoán sai..) chúng ta cần phải xác định được liều bức xạ mà bệnh nhân thực nhận, sau đó so sánh với liều dự kiến mà bệnh nhân nhận được khi làm các thủ thuật tương ứng. Để làm được việc này, chúng ta cần có thiết bị giám sát liều (hiện nay đã có hệ thống giám sát liều tự động) trong chẩn đoán x -quang, x-quang can thiệp, hoặc biết tất cả các thông số khi phát tia, chụp, soi (dùng để đánh giá liều). Các thiết bị này, các thông số này rất cần thiết không chỉ để phát hiện và ngăn ngừa sự cố mà còn để kiểm soát liều bệnh nhân như là một thông số trong hồ sơ bệnh án. Ngoài gia, để xác định mức liều dự kiến trong các thủ thuật cần thiết lập mức liều tham khảo trong chẩn đoán (DRL) ở cấp quốc gia và cấp cơ sở. Để thực hiện Thông tư số 43/2018/TT-BYT đối với các sự cố y khoa trong lĩnh vực y học bức xạ gồm xạ trị, y học hạt nhân và xạ trị cần có những hướng dẫn chi tiết hơn để xác định khi nào cần khai báo và khi nào cần lập báo cáo sự cố. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Chẩn đoán hình ảnh và xạ trị đã mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Nhờ sự tiến bộ khoa học công nghệ, những công nghệ hiện đại đã và đang được đưa vào ứng dụng. Nhiều căn bệnh đã được chẩn đoán sớm và được chữa khỏi. Tuy nhiên những kỹ thuật này lại ngày càng đóng góp nhiều vào liều bệnh nhân. Điều này cho thấy chiếu xạ y tế đã trở thành nguồn bức xạ nhân tạo đóng góp lớn nhất vào liều xạ toàn cầu. Nó làm gia tăng rủi ro bức xạ cho công chúng. Từ đó, chúng ta cần phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của từng cơ quan pháp quy, của lãnh đạo các bệnh viện, của các bác sĩ, của các nhà vật lý y khoa và các cá nhân khác có liên quan trong vấn đề quản lý và kiểm soát chiếu xạ y tế nhằm bảo đảm an toàn cho bệnh nhân. Cần xác định rõ vai trò các nhà vật lý y khoa trong các hoạt động của các khoa xạ trị, y học hạt nhân và x-quang. Họ cần phải được cấp chứng chỉ hành nghề. Một trong những nhiệm vụ chính của họ là đảm bảo an toàn trong chiếu xạ y tế. Việc Bộ Y tế ban hành Thông tư số 43/2018/TT- BYT là cơ sở pháp lý tốt cho việc quản lý sự cố y khoa nói chung và sự cố bức xạ nói riêng. Để Thông tư nhanh trong đi vào thực tiễn, chúng ta cần: - Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới kiểm soát chiếu xạ y tế phù hợp với chuẩn quốc tế về an toàn và bảo vệ chống bức xạ của IAEA; các Hiệp hội nghề nghiệp như Hội chẩn đoán hình ảnh, Hội xạ trị, Hội vật lý y khoa, Hội trang thiết bị y tế phối hợp với các cơ quan quản lý xây dựng hướng dẫn nhận dạng và khai báo và lập báo cáo sự cố bức xạ trong y học bức xạ - Nhanh chóng thúc đẩy thực hiện việc nội kiểm (QA/QC) trong các khoa chẩn đoán hình ảnh, y học hạt nhân và xạ trị và coi đây là những nhiệm vụ bắt buộc và là trách nhiệm của giám đốc bệnh viện. - Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin lỗi và tai biến trong chẩn đoán hình ảnh và xạ trị; - Cần có quy định đối với thiết bị tăng sáng truyền hình, angiography, CT, C-armphải có thiết bị kiểm soát liều tự động hoặc thiết bị sau khi xét nghiệm cung cấp các thông tin để tính liều cho bệnh nhân; Hồ sơ bệnh nhân phải có thông tin về liều bệnh nhân trong quá trình thăm khám và chữa bệnh, đặc biệt là các bệnh nhân chụp CT, angiography, làm các thủ thuật can thiệp và đối với các bệnh nhân nữ và trẻ em. Đặng Thanh Lương Trường Đại học Nguyễn Tất Thành THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 44 Số 64 - Tháng 9/2020 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] UNSCEAR, Report to the General Assembly with Scientific Annexes, Volume I, UNSCEAR re- port 2008, Annex A. [2] IAEA, International Conference on Radiation Protection in Medicine: Achieving Change in Practice, 11-15 December 2017, Vienna, Austria [3] IAEA & WHO, Bonn Call-for-Action, Bonn, 2012 [4] Bộ Y tế, Thông tư số 43/2018/TT-BYT, 2018 [5] Nelson HD, Pappas M, Cantor A, Griffin J, Damges M, Humphrey L. Harms of breast cancer screening: systematic review to update the 2009 U.S. Preventive services task force recommenda- tion. Ann Intern Med. 2016;164(4): 256–267. doi: 10.7326/M15-0970. [8] Michael A. Bruno, MD, Eric A. Walker, MD, Hani H. Abujudeh, MD, MBA Understanding and Confronting Our Mistakes: The Epidemiology of Error in Radiology and Strategies for Error Reduction, NSNA Radio- graphic Volume 36, issuse 6, Octomber, 2016. https://doi.org/10.1148/rg.2015150023 [7] Dang Thanh Luong, Duong van Vinh, Ha Ngoc Thach, Phan Tuong Van, Nguyen Phuong Dung, Pham Quang Dien, Nguyen Manh Phuc, Nguyen Manh Truong, The first trial patient dose survey in diagnostic radiology in Viet Nam, IAEA-CN-85-206, International Conference held in Málaga, Spain, 26–30 March, IAEA 2001 [8] IAEA, Optimization of the radiological pro- tection of patients undergoing radiography, fluor- oscopy and computed tomography, IAEA TEC- DOC-1423, 2014 [9] Paul C Shrimpton, Jan T M Jansen and John D Harrison, Updated estimates of typical effective doses for common CT examinations in the UK following the 2011 national review, Br J Radiol. January 2016; 89(1057) [10] EU, Council Directive 2013/59/Euratom, 2013 [11] IAEA, Radiation Protection and Safety of Radiation Sources: International BasicSafety Standards, IAEA GSR PART 3, 2014 [12] Sue Evans, M.D., M.P.H. After the Error: Disclosure Responsibilities, and controversies June, 2015: Presentat ions/2012Summer/medica l%20 error%20NEAAPM.pdf [13] IAEA, Accuracy Requirements and Uncer- tainties in Radiotherapy, IAEA, Human health series No 31, 2016 [14] Ezzell G, Chera B, Dicker A, Ford E, Potters L, Santanam L, Weintraub S, Common error path- ways seen in the RO-ILS data that demonstrate opportunities for improving treatment safety, Pract Radiat Oncol. 2018 Mar - Apr;8(2):123-132. [15] ICRP, Preventing Accidental Exposures from New External Beam Radiation Therapy Technol- ogies, ICRP pulication 112, 2009 [16] Radiology Quality Institute, Diagnostic Ac- curacy in Radiology: Defining a Literature-Based Benchmark, White paper, 2012, tent/uploads/Diagnostic-Accuracy-in-Radiology [17] Stephen D. Brown, Constance D. Lehman, Robert D. Truog, David M. Browning, and Thomas H. Gallagher, Stepping Out Further from the Shadows: Disclosure of Harmful Radiologic Errors to Patients, Radiology. 2012 Feb; 262(2): 381–386. [18] Sue Evans, After the Error: Disclosure Re- sponsibilities and Controversies, June 15, 2012, Presentat ions/2012Summer/medica l%20 error%20NEAAPM.pdf [19] Kachalia A, Kaufman SR, Boothman R, et al. Liability claims and costs before and after imple- mentation of a medical error disclosure program. Ann Intern Med 2010;153(4):213–221. Crossref, Medline [20] Gallagher TH, Studdert D, Levinson W. Disclosing harmful medical errors to patients. N Engl J Med 2007;356(26):2713–2719.Crossref, Medline
File đính kèm:
- quan_ly_tai_bien_y_khoa_trong_y_hoc_buc_xa.pdf