Quan hệ ngữ đoạn - Liên tưởng ứng dụng trong việc dạy và học tiếng Anh
Trong việc dạy và học tiếng nói chung và
tiếng Anh nói riêng chúng ta luôn luôn vận dụng
hai quan hệ ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng. Giữa
những nhóm kết hợp ngữ đoạn hình thành như vậy
có một mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau; các nhóm
đó qui định lẫn nhau. Quả nhiên, sự kết hợp trong
không gian góp phần tạo nên sự kết hợp liên tưởng,
và những sự kết hợp này lại cần thiết cho sự phân
tích các bộ phận của ngữ đoạn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ ngữ đoạn - Liên tưởng ứng dụng trong việc dạy và học tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan hệ ngữ đoạn - Liên tưởng ứng dụng trong việc dạy và học tiếng Anh
thất nghiệp usual (a) bình thường unusual (a) không bình thường Tương tự: Re- trong rewrite (từ write); rebuild (từ build); replace (từ place) v.v. In- trong independent (từ dependent) v.v. Mis- trong misunderstand (từ understand) v.v. Micro- trong microbe (vi khuẩn); microspore (kính hiển vi) v.v. 4.3. Liên tưởng những từ có cùng cách phát âm Trong tiếng Anh có nhiều từ có cách phát âm giống nhau như chính tả và nghĩa hoàn toàn khác nhau. Do đó người dạy phải cung cấp cho người học biết để người học dùng từ đúng với tình huống. Ví dụ: Right (a): đúng write(v): viết no (a): không know(v): biết where (adv): ở đâu wear(v): mặc there (adv): ở đó their(p.a): của họ 5. Mối quan hệ ngữ đoạn- liên tưởng Trong khi ngữ đoạn khiến ta lập tức nghĩ đến một trật tự kế tục và một số yếu tố nhất định, thì những thành viên của một tộc do liên tưởng tạo nên lại không hề cho thấy một số lượng rõ ràng hay một trật tự nhất định. Nếu liên tưởng từ employer đến singer, đến worker v.v. thì không thể nói trước số lượng những từ được ký ức gợi lên là bao nhiêu, và sẽ xuất hiện theo trật tự nào. Một yếu tố nào đó cũng giống như trung tâm của một chòm sao, là cái điểm quy tụ của những Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 76 yếu tố khác liên hệ với nó, mà số lượng không được xác định. Ta thử xét nhóm this employer chẳng hạn. Có thể biểu hiện nhóm này trên một cái dải đặt ngang, tương ứng với dòng ngữ lưu: This employer goes out .Nhưng đồng thời, và trên một trục khác lại có trong tiềm thức một hay nhiều nhóm liên tưởng, gồm những đơn vị cùng có một yếu tố chung với ngữ đoạn, ví dụ như: this, that, the v.v., và employer, employee, employment, v.v. Có thế ta mới hiểu được sự tác động phối hợp của cái hệ thống song đôi này trong lời nói. Ký ức chúng ta tàng trữ sẵn tất cả các kiểu ngữ đoạn phức hợp ít hay nhiều, dù những ngữ đoạn đó thuộc loại nào và lớn nhỏ bao nhiêu cũng vậy, và đến khi cần dùng đến, ta viện những nhóm liên tưởng ra để lựa chọn. Chẳng hạn This employer goes out at weekends. (Người làm công này đi chơi vào cuối tuần) These employers go out at weekends (những người làm công này đi chơi vào cuối tuần) This employer went out yesterday. (Hôm qua, người làm công này đi chơi) These employers went out yesterday. (Hôm qua, những người làm công này đi chơi) v.v. Dựa vào các quy tắc của hình thái quy định việc lựa chọn this employer chứ không phải là these employers; v.v. trong mỗi nhóm chúng ta cần biết phải biến đổi cái gì để có được sự phân biệt cần thiết cho đơn vị đang tìm. Hễ người ta thay đổi cái ý cần diễn đạt, thì sẽ cần đến những sự đối lập khác để biểu hiện một giá trị khác. Như vậy, trong cái thủ thuật này, mà nội dung là loại trừ trong óc tất cả những gì không dẫn tới sự phân biệt cần thiết ở điểm cần thiết, các nhóm liên tưởng và các loại ngữ đoạn đều có tác dụng, 6. Kết luận Như vậy, tri thức ngôn ngữ học luôn hữu ích cho bất cứ ai. Nó vô cùng cần thiết trong công tác giảng dạy tiếng nói chung và dạy tiếng Anh nói riêng. Một lần nữa, chúng tôi vô cùng biết ơn đến nhà ngôn ngữ học người Thụy Sĩ Ferdinand de Sausure vì ông là người đầu tiên làm cho ngôn ngữ học trở thành một khoa học thực sự nhờ có một đối tượng minh xác và một phương pháp luận hiển ngôn. Ông là người mở đường cho cho ngôn ngữ học hiện đại của thế giới- ngôn ngữ học cấu trúc. Trong đó, toàn bộ hoạt động của hệ thống ngôn ngữ được thể hiện trên hai quan hệ: ngữ đoạn (trục tuyến tính) và liên tưởng (trục dọc). Sau quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng việc giảng dạy của chúng tôi đạt được nhiều kết quả tốt vì vậy chúng tôi cho rằng giáo viên dạy ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng cố gắng tìm hiểu về ngôn ngữ học để góp phần nâng cao trình độ tiếng Anh của sinh viên của trường Đại học Xây dựng Miền Trung. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nhà xuất bản giáo dục. [2] Hà Văn Bửu (1999), Văn phạm Anh văn miêu tả, NXB Trẻ; [3] Lê Quang Thiêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nhà xuất bản đại học và giáo dục chuyên nghiệp. [4] Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á, Đại học sư phạm Ngoại ngữ. [5] Raymond Murphy (2006), English Grammar in Use, Cambridge University Press. [6] Robert Lado, (1957), Linguitics across cultures, Unv.of Michigan. [7] F. de Saussure (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học Đại cương, Nhà xuất bản KHXH. [8] Stuart Redman (2007), English Vocabulary in Use, Cambridge University Press. [9] V.M. Solnsev (1976), Bàn về khả năng so sánh các ngôn ngữ, Nhà xuất bản Khoa học Moskva. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 77 NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG TIỆN GDTC NHẰM TRANG BỊ THỂ LỰC CHUYÊN MÔN NGHỀ NGHIỆP Lại Văn Học Khoa Khoa học cơ bản, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt Quá trình trang bị thể lực chung và thể lực chuyên môn nghề nghiệp cho sinh viên, học sinh các trường đào tạo kỹ thuật cũng như dạy thực hành nghề, phải tạo thành một thể thống nhất các phương tiện GDTC theo hướng phù hợp với đối tượng và đặc điểm nghề nghiệp. Vì vậy thực hiện các bài tập gần giống các thao tác lao động và phức tạp hơn thế là một trong những nét đặc trưng của phương pháp lựa chọn các phương tiện giáo dục thể chất để nhằm phát triển thể lực chuyên môn nghề nghiệp cho học sinh sinh viên các trường kỹ thuật mang tính thực hành nghề. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ giới thiệu tóm tắt những nhiệm vụ và đặc điểm về phương pháp lựa chọn các phương tiện giáo dục thể chất, nhằm phát triển thể lực chuyên môn nghề nghiệp cho học sinh sinh viên các trường kỹ thuật nói chung và mang đặc tính nghề nghiệp đặc trưng chuyên ngành xây dựng của chúng ta. Từ khóa Lựa chọn các phương tiện GDTC 1. Những nhiệm vụ chuẩn bị thể lực chuyên môn nghề nghiệp. Phát triển các tố chất thể lực chuyên môn nghề nghiệp được thực hiện trên cơ sở nền tảng của chuẩn bị thể lực chung. Việc chuẩn bị thể lực chuyên môn cho các nghề nhằm trực tiếp nâng cao hiệu quả của việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật thực hành nghề, phát triển những năng lực thể chất nhằm đáp ứng yêu cầu chuyên môn của hoạt động nghề nghiệp, góp phần hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo nghề và nâng cao tính ổn định của cơ thể đối với những tác động làm ảnh hưởng tới những hoạt động lao động. Nếu biết kết hợp tốt giữa quá trình học kỹ thuật thực hành nghề và chuẩn bị thể lực chuyên môn thì tốc độ nắm vững các thao tác lao động sẽ nhanh và hiệu quả. Ngược lại trình độ thể lực chuyên môn không đầy đủ sẽ không đáp ứng được trình độ nâng cao tay nghề. Việc chuẩn bị tốt tố chất thể lực chuyên môn thực hành nghề không chỉ nâng cao chất lượng học tập thực hành, chuẩn bị đầy đủ những phẩm chất và thể lực cho sinh viên học sinh học tập, mà còn rút ngắn được thời gian đào tạo, giảm được chi phí trong đào tạo mà còn kéo dài tuổi thọ thực hành tay nghề. Từ những cơ sở khoa học đã nêu trên, nhiệm vụ chuẩn bị thể lực chuyên môn bao gồm những yếu tố sau: - Phát triển những năng lực thể chất, nhằm đáp ứng những nhu cầu chuyên môn của những hoạt động thực hành nghề đã chọn (tức là những năng lực trong cấu trúc của những phẩm chất nghề nghiệp) - Hình thành và hoàn thiện những kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết để nắm Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 78 vững những thao tác lao động nghề nghiệp nhất định. - Nâng cao tính đề kháng của cơ thể trước những tác động bất lợi do điều kiện đặc thù của từng hoạt động nghề nghiệp gây ra. - Thông qua sự chuẩn bị thể lực chuyên môn, góp phần phát triển những phẩm chất tâm lý theo yêu cầu của nghề nghiệp. Những nhiệm vụ trên đây được giải quyết kết hợp thống nhất với những nhiệm vụ giáo dục chung và giáo dưỡng nghề nghiệp và được cụ thể hóa với đặc điểm, tính chất của từng nghề. Tùy theo đặc điểm tính chất của từng nhóm nghề, người ta đã áp dụng rộng rãi các phương tiện tập luyện từ các môn thể thao, thể dục bổ trợ, thể dục cơ bản, điền kinh, bơi lôiĐặc biệt có một số nghề cần phải có sự chuẩn bị chuyên môn rất khắt khe, nếu không có sự chuẩn bị thể lực chuyên môn nghề nghiệp tốt thì không thể thực hiện được, có thể liệt kê ra như nghề lái máy bay, nghề lái tàu biển, nghề khai thác mỏ, luyện gang thépđòi hỏi phải có sự chuẩn bị thể lực chuyên môn kỹ càng để tăng sức chịu đựng của cơ thể, trong điều kiện làm việc thiếu dưỡng khí, nhiệt độ cao, áp suất cao, say sóng Các phương tiện chuẩn bị tố chất thể lực chuyên môn trong nhóm thực hành nghề rất đa rạng và phong phú, nhưng khi sử dụng với mục đích nào đó cần hướng vào khả năng chức phận của cơ thể mà sự phát triển chưa đầy đủ gây cản trở khả năng lao động của nghề. Ví dụ như nhóm nghề làm việc trên độ cao, hay dưới độ sâu, sự bất ổn định, thiếu ôxy do không khí loãng có ý nghĩa rất quan trọng. Để nâng cao tính ổn định của cơ thể đối với môi trường bên ngoài khi tiến hành quá trình lao động sản xuất, người ta phải đa rạng hóa các phương tiện áp dụng cho các loại hình nghề nghiệp này, như áp dụng các bài tập của môn điền kinh, chạy việt dã trong điều kiện ngoài trời nắng nóng, trên địa hình tự nhiên có ý nghĩa lớn đối với các nghề khai thác hầm lò, luyện kim, để làm quen với tình trạng thiếu ôxy người ta có thể áp dụng các bài tập chạy ngắn biến tốc trên độ cao, nhưng nghề đòi hỏi giữ thăng bằng và ổn định cơ thể như đặc thù của ngành xây dựng trên tầng cao chẳng hạnthì có thể sử dụng các bài tập thể dục nhào lộn, thể dục dụng cụ, nhảy cầu, bơi lặn 2. Đặc điểm về phương pháp lựa chọn phương tiện giáo dục thể chất, nhằm phát triển thể lực chuyên môn nghề nghiệp. Việc chuẩn bị tố chất thể lực nghề nghiệp, phải kết hợp thống nhất với chuẩn bị thể lực chung, yêu cầu này bắt nguồn từ những quy luật khách quan của sự vận động và sự hoàn thiện cơ thể con người. Quy luật sinh lý học đã chứng minh rằng: Các tố chất vận động được phát triển thống nhất với kỹ năng vận động. Sự hình thành kỹ năng vận động bao giờ cũng phụ thuộc vào mức độ phát triển các tố chất vận động và ngược lại, kỹ năng vận động góp phần là cho các tố chất vận động được hoàn thiện dần và có hiệu quả hơn. Quy luật này đã được lí luận và thực tiễn giáo dục thể chất nêu rõ: Có trình độ chuẩn bị thể lực toàn diện, sẽ tạo nên những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển chuyên môn hóa, tức là phát triển các tốt chất thể lực và hoàn thiện các kỹ xảo chuyên môn cần thiết cho từng nghề. Những kỹ năng, kỹ xảo được hình thành trong quá trình chuẩn bị thể lực chung, là nền tảng giúp con người nắm bắt nhanh những hình thức vận động mới. Phương pháp lựa chọn các phương tiện chuẩn bị thể lực nghề nghiệp là xây dựng một hệ thống các phương tiện xuất phát từ những nhiệm vụ cần giải quyết và quy luật chuyển kỹ năng, kỹ xảo vận động. Điều đó đảm bảo điều kiện thuận lợi nhất của các bài tập đến sự phát triển phẩm chất và kỹ xảo nghề nghiệp cần thiết. Bởi vì hiệu quả của tập luyện thể dục thể thao có xu hướng ngành nghề được xác định bằng mức độ chuyển tốt các tố chất được phát triển và các kỹ xảo được hình thành. Như vậy việc lựa chọn các phương tiện phát triển các tố chất thể lực nghề nghiệp phải góp phần chuyển hướng các tố chất thể lực nghề thu được trong Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 79 các bài tập chuẩn bị chuyên môn sang hoạt động lao động. Ví dụ: Tập luyện với bóng rổ, bóng ném, các chỉ số linh hoạt của thần kinh có ảnh hưởng tốt đến hoạt động nghề nghiệp mà cần đến độ chính xác, khéo léo, nhanh nhậy trong tình huống thay đổiMặt khác các phương tiện phát triển tố chất thể lực nghề nghiệp giúp người tập tiếp thu nhanh vốn kỹ năng, kỹ xảo cần thiết và biết áp dụng chúng như những thao tác trong hoạt động lao động. Ví dụ: Kỹ xảo giữ thăng bằng trong tập luyện các bài tập nhào lộn, các bài tập trên cầu thăng bằng ở mức độ cao khác nhau với tiết diện nhỏsẽ giúp cho người thợ, người cán bộ kỹ thuật xây dựng thực hiện tốt nhiệm vụ thi công trên độ cao của các nhà cao tầng, hay các bài tập chạy việt dã ở điều kiện trời nóng bức, tập ở điều kiện trên núi cao, tập các bài tập biến tốc, lặp lại nhiều lần trong chạy ngắn để nâng cao khả năng sức chịu đựng của người thợ khai thác mỏ trong hầm lò, thợ luyện théptrong điều kiện khắc nghiệt của môi trường thiếu Ôxy. Do đó khi lựa chọn các bài tập chuẩn bị tố chất thể lực nghề nghiệp cần phải dựa trên các thông tin đầy đủ về lượng vận động trong lao động, những yếu tố về cấu trúc động tác và những điều kiện lao động của từng nghề cụ thể. Ngược lại có nhiều thực nghiệm khoa học đã chứng minh rằng: Việc chuẩn bị các phương tiện để phát triển các tố chất thể lực chuyên môn mà không phù hợp với những yếu tố trên thì sẽ có thể làm cản trở đến việc hình thành các phẩm chất kỹ xảo nghề nghiệp. Trong phần lớn các trường hợp này nguyên nhân chủ yếu là phát triển không đầy đủ những phẩm chất quan trọng và cần thiết, hoặc phát triển quá mức một số phẩm chất nào đó của nghề nghiệp. Nhiều thí nghiệm cũng đã rút ra kết luận rằng: Phát triển không cân đối về sức mạnh có thể ảnh hưởng xấu đến việc nắm vững các kỹ xảo vận động tinh vi, gây nên sự cứng nhắc và căng thẳng trong động tácvà biểu hiện này thường xảy ra trong giai đoạn đầu của học thực hành nghề. Việc chuẩn bị thể lực chuyên môn nghề nghiệp cũng tuân theo nguyên tắc chung về phương pháp được xác lập trong hệ thống giáo dục thể chất, trong đó có nguyên tắc chung của quá trình dạy học và giáo dục. Qua việc phân tích trên cũng phần nào đó thấy được những đặc điểm cụ thể của những nguyên tắc riêng cần nắm được trong lĩnh vực này. Đặc điểm chuyên biệt cho một loạt những hình thức hoạt động trong lao động nghề nghiệp đòi hỏi phải tổ chức tập luyện trong những điều kiện thời tiết, tình huống khác nhau gần giống với điều kiện lao động, do đó một trong những đặc điểm của phương pháp chuẩn bị tố chất thể lực nghề nghiệp là tập luyện trong điều kiện gần giống hoặc phức tạp hơn điều kiện lao động../ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] B.C Ghep-pen-che (1963), Hai quan điểm và hai loại hình giáo dục nghề nghiệp và rèn luyện thể chất. (Tuyển tập NCKH-GDTC, sức khỏe trong trường học, NXB TDTT,Hà Nội) [2] Din-Nhich (1977), Sử dụng phương tiện TDTT nhằm trang bị cho học sinh thích ứng với hoạt động nghề nghiệp trong tương lai. (Tạp chí lý luận và phương pháp TDTT, Matxcova) [3] Nguyễn Toán (1991), Thể dục thể thao, NXB Đại học &GDCN, Hà Nội.
File đính kèm:
- quan_he_ngu_doan_lien_tuong_ung_dung_trong_viec_day_va_hoc_t.pdf