Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội

Sự khác biệt thực chất giữa quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội với quan

điểm của các nhà triết học trước C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là ở chỗ, lần đầu tiên C.Mác

giải thích trên quan điểm duy vật biện chứng về quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, quan

hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng

tầng. Khi phân kỳ các hình thái kinh tế - xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao, C.Mác dựa vào các loại

phương thức sản xuất; cách phân kỳ đó coi lịch sử là một quá trình tự nhiên. Khi tiên đoán về xã

hội tương lai, tuy C.Mác chưa chỉ rõ tính đặc thù về trình độ của lực lượng sản xuất trong chủ

nghĩa xã hội, nhưng ông cho rằng lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội phải cao hơn lực lượng

sản xuất trong chủ nghĩa tư bản. Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là quan điểm

khoa học.

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 1

Trang 1

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 2

Trang 2

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 3

Trang 3

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 4

Trang 4

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 5

Trang 5

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 6

Trang 6

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 7

Trang 7

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 8

Trang 8

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 2300
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội
 thức sản 
xuất Châu Á, hình thái kinh tế - xã hội dựa 
trên phương thức sản xuất cổ đại (hình thái 
kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ), hình thái 
kinh tế - xã hội dựa trên phương thức sản 
xuất phong kiến (hình thái kinh tế - xã hội 
phong kiến), hình thái kinh tế - xã hội dựa 
trên phương thức sản xuất tư sản hiện đại 
(hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa), 
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ 
nghĩa. Cách phân kỳ lịch sử này của C.Mác 
về cơ bản phù hợp (chứ không phải hoàn 
toàn phù hợp) với cách phân kỳ của sách 
giáo khoa triết học mác-xít ở Việt Nam, vì 
C.Mác cho rằng phương thức sản xuất Châu 
Á là một loại phương thức sản xuất tồn tại 
sau phương thức sản xuất cộng sản nguyên 
thủy và trước phương thức sản xuất cổ đại. 
Ngoài hai cách phân kỳ trên đây về lịch 
sử xã hội loài người, còn có 3 cách phân kỳ 
đáng chú ý sau. Thứ nhất, lịch sử xã hội 
loài ngýời ðã trải qua 2 giai đoạn: xã hội 
tiền công nghiệp, xã hội công nghiệp. Cách 
phân kỳ này không căn cứ vào quan hệ sản 
xuất, mà căn cứ vào tính chất công nghiệp 
hay không phải công nghiệp của lực lượng 
sản xuất. Khi có phát minh ra máy hơi nước 
(năm 1780), một số nước bắt đầu chuyển từ 
xã hội tiền công nghiệp (chỉ có sản xuất 
nông nghiệp) sang xã hội công nghiệp. 
Hiện nay, nhiều nước vẫn chưa phải là nước 
công nghiệp. Thứ hai, lịch sử xã hội loài 
người đã trải qua 4 giai đoạn: xã hội không 
có giai cấp lần thứ nhất, xã hội có giai cấp, 
xã hội không có giai cấp lần thứ hai, xã hội 
có giai cấp lần thứ hai. Cách phân kỳ này 
căn cứ vào việc có hay không có giai cấp. 
Ví dụ, xã hội Nga lúc đầu là xã hội không 
có giai cấp; từ thời cổ đại đến năm 1917 là 
xã hội có giai cấp; từ năm 1917 đến năm 
1985 là xã hội không có giai cấp lần thứ 
hai; từ năm 1985 (khi diễn ra công cuộc cải 
tổ) là xã hội có giai cấp lần thứ hai. Các 
nước Anh, Pháp và nhiều nước khác đang 
là xã hội có giai cấp lần thứ nhất. Thứ ba, 
lịch sử xã hội loài người đã trải qua 4 giai 
đoạn: xã hội không có chế độ tư hữu về tư 
liệu sản xuất lần thứ nhất, xã hội có chế độ 
tư hữu về tư liệu sản xuất lần thứ nhất, xã 
hội không có chế độ tư hữu về tư liệu sản 
xuất lần thứ hai, xã hội có chế độ tư hữu về 
tư liệu sản xuất lần thứ hai. Cách phân kỳ 
này căn cứ vào việc có hay không có chế 
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, và tương ứng 
với cách phân kỳ căn cứ vào việc có hay 
không có giai cấp; bởi vì khi không có chế 
độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì cũng 
không có giai cấp. Từ năm 1917, nước 
Nga bắt đầu chuyển từ xã hội có chế độ tư 
hữu về tư liệu sản xuất lần thứ nhất sang 
xã hội không có chế độ tư hữu về tư liệu 
sản xuất lần thứ hai; từ năm 1985, nước 
Nga lại bắt đầu chuyển từ xã hội không có 
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất lần thứ 
hai sang xã hội có chế độ tư hữu về tư liệu 
sản xuất lần thứ hai. 
Trên đây là 5 cách phân kỳ lịch sử. Mỗi 
cách phân kỳ lịch sử trong 5 cách phân kỳ 
ấy đều có ý nghĩa nhất định. Ngoài 5 cách 
phân kỳ đó, chúng ta có thể phân kỳ lịch sử 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
8 
theo một số cách khác tùy theo mục đích 
nhận thức cụ thể về lịch sử. Dù áp dụng 
cách phân kỳ nào thì cũng cần quán triệt 
nguyên tắc thống nhất lịch sử và lôgíc. 
Theo nguyên tắc này, bất kỳ sự vật nào 
cũng có lịch sử, tức là có quá trình sinh 
thành, phát triển và mất đi, quá trình đó tất 
yếu phải trải qua các giai đoạn nào đó giống 
như các giai đoạn phát triển tất yếu của một 
cơ thể sinh vật. Nói cách khác, lịch sử của 
bất kỳ sự vật nào cũng diễn ra có tính lôgíc. 
Tính lôgíc của lịch sử có nghĩa rằng, lịch sử 
là sự nối tiếp tất yếu của các các giai đoạn 
khác nhau, trong đó giai đoạn sau là sự phát 
triển hơn giai đoạn trước. 
Khi xem xét cách phân kỳ của C.Mác về 
lịch sử xã hội loài người, ta cần chú ý 4 
điểm sau. Thứ nhất, xét về lịch sử, một số 
cộng đồng đã bước sang giai đoạn sau trong 
khi một số cộng đồng khác vẫn ở giai đoạn 
trước. Chẳng hạn, trên thế giới hiện nay, 
một số cộng đồng đang ở hình thái kinh tế - 
xã hội cộng sản nguyên thủy, hoặc đang ở 
hình thái kinh tế - xã hội phong kiến; trong 
khi đó một số cộng đồng khác thì đang ở 
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa; 
một số cộng đồng (như ở Châu Á) không có 
hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, 
mà lại có phương thức sản xuất Châu Á và 
tương ứng có “hình thái kinh tế - xã hội dựa 
trên phương thức sản xuất Châu Á”; một số 
cộng đồng (như ở Châu Âu) không có hình 
thái kinh tế - xã hội dựa trên phương thức 
sản xuất Châu Á. Xét về lôgíc, mỗi hình 
thái kinh tế - xã hội là một giai đoạn của 
lịch sử; thứ tự hình thành các hình thái kinh 
tế - xã hội nhìn chung là từ hình thái kinh tế 
- xã hội cộng sản nguyên thủy (dựa trên chế 
độ công hữu về tư liệu sản xuất) đến các 
hình thái kinh tế - xã hội dựa trên chế độ tư 
hữu về tư liệu sản xuất (“hình thái kinh tế - 
xã hội dựa trên phương thức sản xuất Châu 
Á”, hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô 
lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, 
hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa tư bản); 
và sẽ đến hình thái kinh tế - xã hội cộng sản 
chủ nghĩa (dựa trên chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất). Như vậy, thứ tự thay thế hình 
thái kinh tế - xã hội tuy là một quá trình lịch 
sử - tự nhiên nhưng không giống nhau ở các 
cộng đồng khác nhau. Quá trình lịch sử - tự 
nhiên thể hiện ở chỗ, lịch sử của mọi cộng 
đồng đều đã và sẽ phải trải qua ba giai 
đoạn: xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất (giai đoạn 1), xã hội dựa trên 
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (giai đoạn 
2), xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất (giai đoạn 3). Giai đoạn 3 là 
sự lặp lại giai đoạn 1 nhưng ở trình độ cao 
hơn. Thứ hai, không có xã hội nào là giai 
đoạn cao tột cùng. Sự phát triển của xã hội 
thể hiện trước hết và chủ yếu ở sự phát triển 
của công cụ sản xuất; công cụ sản xuất phát 
triển dần dần và tự nhiên; điều đó kéo sự 
thay thế các quan hệ xã hội ở trình độ thấp 
bằng các quan hệ xã hội ở trình độ cao hơn; 
xã hội loài người không ngừng phát triển từ 
trình độ thấp hơn đến trình độ cao hơn theo 
sự phát triển không ngừng của công cụ sản 
xuất. Tiến trình 3 giai đoạn ở trên (xã hội 
không có chế độ tư hữu  xã hội có chế độ 
tư hữu  xã hội không có chế độ tư hữu) 
chỉ là một vòng khâu trong vô số vòng 
khâu. Xã hội không có chế độ tư hữu sau 
lần phủ định thứ hai không phải là giai đoạn 
tột cùng của xã hội. Xã hội loài người có 
giai đoạn khởi đầu (xã hội không có chế độ 
tư hữu) nhưng không có giai đoạn cuối 
cùng. Có thể hình dung tiến trình phát triển 
của xã hội loài người như sau: xã hội không 
có chế độ tư hữu  xã hội có chế độ tư hữu 
 xã hội không có chế độ tư hữu  xã hội 
Nguyễn Ngọc Hà, Trịnh Thị Hằng 
9 
có chế độ tư hữu  Tiến trình này là vô 
tận. Tiến trình này là một trường hợp biểu 
hiện của quy luật phủ định của phủ định 
(được nói đến trong lôgíc học của Hêgen). 
Xóa bỏ chế độ tư hữu và phục hồi chế độ tư 
hữu là hai lần phủ định. Phục hồi chế độ tư 
hữu là phủ định của phủ định chế độ tư hữu. 
Hai lần phủ định này là hai lần thay đổi 
theo chiều hướng phát triển. Xã hội ở giai 
đoạn sau cao hơn xã hội ở giai đoạn trước; 
xã hội ở giai đoạn sau lặp lại xã hội ở chu 
kỳ trước (vì đều có hoặc không có chế độ tư 
hữu) nhưng lại cao hơn xã hội ở chu kỳ 
trước. Mọi cộng đồng (bộ tộc, dân tộc, quốc 
gia, khu vực) đều đi theo tiến trình này. 
Việc nước Nga xóa bỏ chế độ tư hữu (từ 
năm 1917) và phục hồi chế độ tư hữu (năm 
1985) là phù hợp với lôgíc trên. Không chỉ 
nước Nga mà các nước khác cũng sẽ như 
vậy. Thứ ba, lịch sử của một nước hoặc một 
khu vực cụ thể có thể bỏ qua một số giai 
đoạn trung gian nếu có sự giúp đỡ của các 
cộng đồng tiến bộ hơn. Ví dụ, một cộng 
đồng có thể chuyển từ xã hội nông nghiệp, 
bỏ qua xã hội công nghiệp bậc 1, tiến thẳng 
lên xã hội công nghiệp bậc 2; hoặc bỏ qua 
xã hội tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên xã 
hội cộng sản văn minh; thậm chí có thể từ 
xã hội cộng sản nguyên thủy tiến thẳng lên 
xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự bỏ qua đó là 
điều có thể nếu có sự giúp đỡ của các cộng 
đồng tiến bộ hơn. Thứ tư, thời kỳ quá độ từ 
hình thái kinh tế - xã hội này đến hình thái 
kinh tế - xã hội khác không phải là một 
hình thái kinh tế - xã hội, thời gian tồn tại 
của thời kỳ quá độ đó không lâu như thời 
gian tồn tại của một hình thái kinh tế - xã 
hội. C.Mác không dự đoán cụ thể về thời 
gian tồn tại của thời kỳ quá độ từ hình thái 
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình 
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
Tuy nhiên, ông cũng không dự đoán nào 
cho rằng thời gian tồn tại của thời kỳ quá 
độ đó là hàng trăm năm (tức là lâu hơn cả 
thời gian tồn tại dự đoán của hình thái kinh 
tế - xã hội tư bản chủ nghĩa). 
4. Quan điểm của C.Mác về trình độ của 
lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội 
C.Mác dự đoán rằng, xã hội tư bản chủ 
nghĩa nhất định sẽ mất đi, xã hội cộng sản 
nhất định sẽ hình thành. Hơn nữa, ông còn 
dự đoán rằng, có 3 giai đoạn khác nhau sau 
khi nhà nước tư sản mất đi. Đó là: thời kỳ 
quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội 
cộng sản, giai đoạn đầu của xã hội cộng sản 
(chủ nghĩa xã hội), giai đoạn cao của xã hội 
cộng sản. Thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản 
chủ nghĩa lên xã hội cộng sản vẫn có chế độ 
tư hữu, có kinh tế thị trường, có tình trạng 
người bóc lột người, có tồn tại hình thức 
phân phối không theo lao động, có bất 
công, có bất bình đẳng về thu nhập, có giai 
cấp, có nhà nước, có chế độ dân chủ, có sự 
cưỡng bức, có sự mất tự do. Tuy nhiên, 
trong thời kỳ quá độ, nhà nước tư sản được 
thay bằng nhà nước vô sản, chế độ dân chủ 
tư sản được thay bằng chế độ dân chủ vô 
sản, “chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ 
chế độ dân chủ tư sản nào cũng dân chủ 
hơn gấp triệu lần” [4, t.37, tr.312], giai cấp 
vô sản cưỡng bức giai cấp tư sản (chứ 
không phải giai cấp tư sản cưỡng bức giai 
cấp vô sản). 
Trong hệ thống quan điểm của C.Mác về 
hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội 
là một giai đoạn của xã hội cộng sản chủ 
nghĩa. Chủ nghĩa xã hội có chế độ công hữu 
về tư liệu sản xuất; không có nền kinh tế thị 
trường; thực hiện nguyên tắc phân phối 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
10 
theo lao động; không có tình trạng người 
bóc lột người, nhưng vẫn có tình trạng bất 
công; vẫn có tình trạng bất bình đẳng về thu 
nhập. Chủ nghĩa xã hội không có giai cấp, 
không có nhà nước, không có chế độ dân 
chủ, không có sự cưỡng bức, có tự do. Giai 
đoạn cao của xã hội cộng sản phát triển cao 
hơn chủ nghĩa xã hội về lực lượng sản xuất; 
thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu 
cầu (chứ không phải theo lao động). Chủ 
nghĩa xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư 
bản về lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội 
cũng có nền sản xuất công nghiệp như chủ 
nghĩa tư bản, nhưng nền sản xuất công 
nghiệp trong chủ nghĩa xã hội cao hơn nền 
sản xuất công nghiệp trong chủ nghĩa tư 
bản. Mặc dù cho rằng chủ nghĩa xã hội phát 
triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về lực lượng 
sản xuất, nhưng C.Mác chưa chỉ ra sự khác 
biệt về trình độ giữa lực lượng sản xuất 
trong chủ nghĩa tư bản với lực lượng sản 
xuất trong chủ nghĩa xã hội; chưa chỉ ra sự 
khác biệt giữa nền sản xuất công nghiệp 
trong chủ nghĩa tư bản với nền sản xuất 
công nghiệp trong chủ nghĩa xã hội. 
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã 
làm cho xã hội phong kiến mất đi và xã hội 
tư bản chủ nghĩa hình thành. Vào thời của 
C.Mác, mới chỉ có cách mạng công nghiệp 
lần thứ nhất. Cách mạng công nghiệp hiện 
nay đã là cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
Vào giữa thế kỷ XX, khi Liên Xô còn là 
cường quốc, nhiều người mác-xít cho rằng, 
trình độ của nền sản xuất công nghiệp lúc 
đó (tức là sản xuất công nghiệp dựa trên 
thành tựu của cách mạng công nghiệp lần 
thứ ba) đã không tương thích với quan hệ 
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cách mạng công 
nghiệp phát triển không ngừng. Tiếp theo 
cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là cách mạng 
công nghiệp 5.0, rồi cách mạng công 
nghiệp 6.0, và cứ thế mãi. Khó có thể dự 
đoán chính xác rằng đến cách mạng công 
nghiệp lần thứ bao nhiêu thì quan hệ sản 
xuất tư bản chủ nghĩa sẽ cạn kiệt sức sống, 
nhường chỗ cho quan hệ sản xuất xã hội 
chủ nghĩa. Vì vậy, nếu còn sống, C.Mác 
cũng sẽ bổ sung nhận thức mới về hình thái 
kinh tế - xã hội, theo đó quan hệ sản xuất tư 
bản chủ nghĩa có khả năng đổi mới để 
tương thích với cách mạng công nghiệp 4.0. 
5. Kết luận 
Khi nghiên cứu học thuyết đó, chúng ta cần 
chú ý đến thực chất quan điểm của C.Mác, 
chứ không phải chú ý đến các thuật ngữ 
mới được C.Mác đưa ra. Cách mà C.Mác 
phân loại phương thức sản xuất và phân kỳ 
lịch sử tương ứng với các phương thức sản 
xuất, tuy không áp dụng cho mọi cộng 
đồng, nhưng là một cách phân loại khoa 
học vì cách đó dựa trên nguyên tắc coi lịch 
sử là một quá trình tự nhiên. Mặc dù C.Mác 
chưa chỉ rõ tính đặc thù về trình độ của lực 
lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội, 
nhưng ông dự đoán rằng lực lượng sản xuất 
trong chủ nghĩa xã hội phải cao hơn lực 
lượng sản xuất trong chủ nghĩa tư bản. 
Ngày nay, với bao biến cố lịch sử, quan 
điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã 
hội từ thế kỷ XXI cần phải được bổ sung và 
phát triển hơn nữa. Mặc dù vậy, quan điểm 
của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội vẫn 
là quan điểm khoa học, vì về thực chất đó là 
quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Bản chất 
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Nguyễn Ngọc Hà, Trịnh Thị Hằng 
11 
[2] Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ 
Sĩ Quý (Đồng chủ biên) (1997), Những 
quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen - 
V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ 
quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Nguyễn Chí Dũng (2015), “Học thuyết của 
C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội dưới ánh sáng 
thời đại ngày nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt 
Nam, số 2. 
[3] Nguyễn Ngọc Long (Chủ biên) (2010), Chủ 
nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của 
chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
[4] V.I.Lênin (1976 - 1981), Toàn tập, t.16, t.17, 
t.33, t.36, 37, t.39, t.42, t.43, Nxb Tiến bộ, 
Mátxcơva. 
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen (1984), Tuyển tập, Gồm 
sáu tập, t.I, t.V, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2001), Tiến lên 
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ 
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[7] Trần Văn Phòng (2013), “Có phải học thuyết 
của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai 
lầm?”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8. 
[8] Dương Văn Thịnh (2016), “Về học thuyết hình 
thái kinh tế - xã hội của C.Mác”, Tạp chí Khoa 
học xã hội Việt Nam, số 5. 
[9] Hà Đăng (2011), Từ bỏ chủ nghĩa xã hội là 
một sai lầm lớn, 
dien-bien-hoa-binh/tu-bo-chu-nghia-xa-hoi-la-
mot-sai-lam-lon-522845, truy cập ngày 
20/12/2018 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_c_mac_ve_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi.pdf