Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng

Triết gia người Pháp Auguste Comte (1798 - 1857) là nhà sáng lập chủ nghĩa

thực chứng, đồng thời là một trong những người đặt nền móng cho ngành xã hội

học hiện đại. Cơ sở lý luận trong triết học thực chứng của Auguste Comte dựa

trên những thành tựu của các ngành khoa học cùng với thuyết “ba giai đoạn” do

ông đề xuất có ảnh hưởng lớn đến các nhà triết học phương Tây thế kỷ XIX.

Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung làm rõ quan điểm của ông về xã hội thực

chứng, cùng với những giá trị và hạn chế mang tính lịch sử.

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 1

Trang 1

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 2

Trang 2

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 3

Trang 3

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 4

Trang 4

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 5

Trang 5

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 6

Trang 6

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 7

Trang 7

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 8

Trang 8

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 9

Trang 9

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang xuanhieu 4660
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng
 truyền và phổ biến chủ nghĩa 
thực chứng ra toàn thế giới gồm 5 giai 
đoạn và có thể được thực hiện triệt để 
trong khoảng thời gian hai thế kỷ. Ông 
cũng đề xuất tạo ra một lá cờ chung 
cho Cộng hòa phương Tây với nền 
màu xanh lá cây, trên đó biểu thị 
phương châm của chủ nghĩa thực 
chứng. Một bên của lá cờ sẽ là 
phương châm chính trị và khoa học - 
Trật tự và Tiến bộ, còn bên kia là 
phương châm đạo đức và thẩm mỹ -
Sống vì mọi người. Theo ông, trên cơ 
sở của lá cờ này với những thay đổi 
nhỏ sẽ là quốc kỳ cho mỗi quốc gia. 
Đặc điểm của xã hội trong trạng 
thái thực chứng 
Trong tập 4 của tác phẩm Hệ thống 
chính thể thực chứng với chủ đề 
“Tổng hợp về tương lai của con 
người” (Tableau synthétique de 
l'esprit humain) mô tả chi tiết về các 
đặc điểm của xã hội thực chứng. 
Thứ nhất, về đặc điểm và vai trò nhà 
nước 
A. Comte (1854: 435) cho rằng trong 
tương lai, “quyền lực nhà nước sẽ 
ngày càng dựa trên quyền lực tinh 
thần nhiều hơn so với quyền lực tạm 
thời”. Theo ông, quyền lực tạm thời 
của nhà nước được duy trì để đảm 
bảo cho các hoạt động xã hội bình 
thường nhằm hướng đến phục vụ đời 
sống vật chất của công dân và nó dần 
phải được hạn chế và “hành động của 
nó cần được sửa đổi bởi quyền lực 
tinh thần” (A. Comte, 1908: 396). 
Dường như quan điểm này của ông 
có sự tương đồng với các nhà xã hội 
như Charles Fourier(4) và Étienne 
Cabet
(5)
, thậm chí cũng gần với quan 
điểm về “nhà nước tự tiêu vong” của 
C. Mác (M. Pickering, 2009: 365). Còn 
quyền lực tinh thần không chỉ cung 
cấp một ảnh hưởng nhất định đối với 
quyền lực tạm thời mà còn giúp tạo ra 
sự đoàn kết xã hội bằng cách hình 
thành niềm tin và cảm xúc của con 
người thông qua giáo dục. A. Comte 
(1908: 405) cho rằng: “Sự cần thiết 
của quyền lực tinh thần là để nghiên 
cứu và giảng dạy những quy luật của 
những hiện tượng xã hội và những 
nguyên tắc đạo đức, do đó quyền lực 
tinh thần sẽ cai trị con người bằng 
cách thuyết phục, thay vì bắt buộc”. 
Thứ hai, về vai trò của các tầng lớp xã 
hội 
Về vai trò của phụ nữ, A. Comte (1854: 
304) cho rằng, họ là cầu nối cho mối 
quan hệ giữa con người và nhân loại, 
là người bạn đồng hành tốt nhất và là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
9 
đối tượng phù hợp nhất đảm nhận vai 
trò giáo dục con cái và sửa đổi hành vi 
đạo đức cho xã hội. Theo ông, họ cần 
phải được xếp ở vị trí cao nhất trong 
xã hội vì họ đại diện cho sự nhân cách 
hóa một cách thuần khiết và đơn giản 
nhất của tình yêu thương nhân loại. 
Về vai trò của người lao động và nhà 
tư bản, theo A. Comte, xã hội thực 
chứng sẽ là một xã hội có trật tự, 
người giàu sẽ chăm sóc người nghèo, 
người nghèo sẽ tôn trọng người giàu. 
Các nhà tư bản với trách nhiệm đảm 
bảo sự thịnh vượng vật chất của xã 
hội; chăm sóc và bảo trợ tầng lớp 
thấp hơn là hạnh phúc của họ. Trong 
khi đó, người lao động, mặc dù họ bị 
buộc phải phục tùng, nhưng họ là 
người giàu có về cảm xúc tình cảm và 
hạnh phúc hơn so với những người 
bảo trợ cho họ, bởi vì các nhà tư bản 
phải chịu trách nhiệm bảo vệ họ (A. 
Comte, 1854: 332-333). Nhà tư bản 
trong vai trò của mình thúc đẩy phát 
triển hệ thống công nghiệp, có thể 
giúp người lao động dễ dàng thay đổi 
công việc và tìm được việc làm được 
trả lương cao ở bất cứ đâu trên thế 
giới. Với việc làm được đảm bảo hơn, 
mức lương cao hơn và giáo dục tốt 
hơn, người lao động sẽ hạnh phúc và 
có thể cống hiến hết mình để cải thiện 
bản thân và đạo đức (A. Comte, 1854: 
341-342). 
Thứ ba, quan niệm về giáo dục 
A. Comte cho rằng, giáo dục giữ vai 
trò quan trọng trong xã hội thực chứng, 
giúp con người có thể sửa đổi hành vi 
của mình, giảm sự bất đồng và gắn 
kết con người với nhau, đặc biệt giáo 
dục sẽ thúc đẩy quyền lực tinh thần 
trong chức năng chính trị và tôn giáo. 
Theo ông, giáo dục cần phải được 
phổ biến cho toàn xã hội và có quyền 
tự do trong giảng dạy. Ông cũng đề ra 
một chương trình giáo dục khá chi tiết 
cho từng cá nhân trong xã hội. Theo 
đó, giáo dục trước tiên là tình cảm, 
sau đó là thẩm mỹ, lý thuyết và thực 
tiễn, và rộng hơn nữa là lịch sử của 
nền văn minh. Đầu tiên là phụ nữ 
trong vai trò người mẹ sẽ chăm sóc 
giáo dục tình cảm và thẩm mỹ cho trẻ 
trước tuổi dậy thì, ở tuổi 14. Tiếp theo, 
các linh mục sẽ dạy các môn khoa 
học cho độ tuổi từ 14 đến 21. Sau đó, 
các nhà giáo dục có kinh nghiệm ở 
những ngành nghề khác nhau sẽ 
hướng dẫn môn học mang tính thực 
tiễn để đáp ứng nhu cầu việc làm của 
một thế giới năng động cho độ tuổi 
sau tuổi 21 (A. Comte, 1854: 368). 
3. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƢ 
TƢỞNG A. COMTE VỀ XÃ HỘI 
THỰC CHỨNG 
Có thể thấy rằng quan điểm về xã hội 
thực chứng của A. Comte còn hạn 
chế nhất định do lịch sử xã hội quy 
định, nhưng những đề xuất của ông 
vẫn có những giá trị nhất định đáng để 
suy ngẫm. 
Thứ nhất, với mong muốn dùng tri 
thức khoa học để thúc đẩy tiến bộ xã 
hội, đặc biệt là xã hội học do ông đề 
xuất để xây dựng một trật tự xã hội 
mới, tinh thần ấy đã tạo nên một trào 
lưu xã hội thật sự, ảnh hưởng sâu sắc 
đến những nhà xã hội học sau này. 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN – QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
10 
Việc đề xuất ngành khoa học mới này 
là tiền đề quan trọng giúp cho những 
nhà khoa học xã hội tiếp tục nghiên 
cứu và đi sâu vào từng lĩnh vực của 
đời sống xã hội đạt được những thành 
quả nhất định. Cũng chính vì thế mà A. 
Comte được thừa nhận là một trong 
những người đặt nền móng cho 
ngành xã hội học hiện đại. 
Thứ hai, việc đề xuất xây dựng một xã 
hội mới dựa trên phương châm “Trật 
tự và Tiến bộ” của A. Comte, một mặt 
phù hợp trong điều kiện hiện tại của 
xã hội đầy biến động phức tạp, mặt 
khác nó cũng phù hợp với xu hướng 
của nền chính trị hiện đại. Theo ông, 
một xã hội nếu muốn có sự tiến bộ thì 
không thể không có trật tự và sự tiến 
bộ hoàn hảo có xu hướng củng cố trật 
tự. Hơn nữa, theo ông tiến bộ không 
chỉ có nghĩa là nâng cao đời sống vật 
chất mà còn là đời sống tinh thần của 
xã hội, đặc biệt là sự tiến hóa về đạo 
đức. Quan điểm này có sự ảnh hưởng 
nhất định đối với phong trào cải tổ 
chính trị của các quốc gia. Hiện nay 
phương châm này vẫn còn được in 
trên quốc kỳ của Brazil, một quốc gia 
chịu sự ảnh hưởng tư tưởng của ông 
thời kỳ bấy giờ. 
Thứ ba, trong xã hội thực chứng, A. 
Comte đề xuất sự giải phóng phụ nữ, 
đề cao vai trò ưu việt của họ trong 
việc giáo dục con cái và sửa đổi hành 
vi đạo đức cho xã hội và xếp họ ở vị 
trí đầu tiên trong xã hội tương lai. 
Quan điểm này của ông đã truyền 
cảm hứng cho phong trào nữ quyền 
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 
Thứ tư, trong quan điểm về giáo dục, 
A. Comte cho rằng, ngoài việc giáo 
dục tri thức bách khoa thì việc giáo 
dục đạo đức giữ vai trò quan trọng 
trong việc tổ chức xây dựng xã hội 
mới. Đặc biệt ông cho rằng, giáo dục 
tình cảm và thẩm mỹ cho trẻ trước 
tuổi dậy thì giữ vai trò quyết định trong 
việc định hình nhân cách con người, 
quan điểm này đến nay vẫn còn 
nguyên giá trị đối với giáo dục các 
nước, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, 
Comte còn là một trong những người 
đầu tiên cổ xúy cho nền giáo dục đại 
chúng và quyền tự do trong giảng dạy. 
Mặc dù có những giá trị nêu trên, 
nhưng quan điểm của A. Comte về 
chính thể thực chứng cũng cho thấy 
rõ những hạn chế nhất định. 
Một là, xã hội thực chứng của A. 
Comte còn có sự phân biệt đẳng cấp 
và mang tính biện hộ chính trị. “Tính 
chất biện hộ chính trị” (Đinh Ngọc 
Thạch và cộng sự, 2013: 148) và 
phân biệt đẳng cấp trong quan điểm 
về xã hội thực chứng của ông một mặt 
được thể hiện trong việc đề xuất phân 
chia xã hội thành ba tầng lớp cơ bản, 
mà mỗi tầng lớp giữ vị trí và vai trò 
khác nhau trong xã hội; mặt khác 
thông qua việc kêu gọi sự phục tùng 
của các tầng lớp thấp hơn như là việc 
thực hiện bổn phận đạo đức. Hơn nữa 
ông phủ nhận các phong trào cách 
mạng xã hội và đề xuất khẩu hiệu 
“Trật tự và Tiến bộ”. 
Hai là, xã hội thực chứng của A. 
Comte mang tính chủ quan và không 
tưởng. Việc đề xuất xã hội thực chứng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
11 
của ông dựa trên cơ sở lý luận luật ba 
giai đoạn có sự gượng ép một cách 
nhất định, mang tính chủ quan và 
thiếu cơ sở để chứng minh. Mặc dù 
ông đưa ra nhiều dẫn chứng về mặt 
lịch sử để chứng minh, nhưng theo 
tác giả Lưu Phóng Đồng (2004: 90), 
“đó chỉ là một số ví dụ miêu tả mang 
tính hiện tượng chủ nghĩa đối với sự 
phát triển tư tưởng loài người, chưa 
phản ánh chính xác quy luật của sự 
phát triển ấy”. Còn theo Cardinal 
Mercier
(6)
 (1917: 20), “luật giả định 
của ông về ba giai đoạn chỉ là một hệ 
quả của một định đề không được 
chứng minh; hoặc đó là một kinh 
nghiệm và ngoài sự quan sát về lịch 
sử thì nó hoàn toàn không có giá trị”. 
Tính chủ quan trong học thuyết của 
ông còn thể hiện thông qua phương 
pháp dự báo của ông. Châm ngôn mà 
A. Comte yêu thích là “từ khoa học 
đến dự báo”. Sau khi chuẩn bị về lý 
luận khoa học trong Giáo trình triết 
học thực chứng, ông đi đến dự báo 
tương lai về sự thống trị của xã hội 
học và đạo đức; các ngành khoa học 
sẽ thống nhất đối tượng nghiên cứu là 
nhân loại và sẽ trở nên đạo đức hơn. 
Vì thế xã hội thực chứng mà ông đề 
xuất xây dựng trong Hệ thống chính 
thể thực chứng, công trình thứ hai của 
mình hoàn toàn dựa vào những 
nguyên tắc đạo đức, đặc biệt là dựa 
vào tình cảm vị tha của con người, 
cũng vì thế mà nó thiếu đi tính thực 
tiễn để có thể tồn tại được. 
Ba là, trật tự xã hội và đạo đức mà A. 
Comte hướng đến được phỏng theo 
mô hình trật tự và đạo đức của xã hội 
Công giáo thời kỳ phát triển cực thịnh 
ở Châu Âu, điều đó cho thấy tư tưởng 
của ông quá phiến diện và lạc hậu so 
với tư tưởng của các nhà triết học 
đương thời. Còn nhân đạo giáo do 
ông sáng lập, được xem là cơ sở nền 
tảng chuẩn bị cho sự thành công của 
xã hội thực chứng trong tương lai 
cũng không thể thu hút được công 
chúng và bị các nhà tư tưởng đương 
thời phê phán. 
4. KẾT LUẬN 
Sống trong bối cảnh xã hội biến động 
đầy phức tạp, A. Comte đã cố gắng 
hợp nhất những dòng chảy của tri 
thức với khát vọng nhằm tái thiết một 
trật tự xã hội mới dựa trên những 
thành tựu văn minh của nhân loại. Tuy 
có những hạn chế mang tính lịch sử 
và lập trường giai cấp được các nhà 
triết học sau ông đã chỉ ra, song quan 
điểm của ông về những bộ phận cấu 
thành nền văn minh và phương châm 
“trật tự và tiến bộ” trong tiến trình xây 
dựng xã hội thực chứng là sự kế thừa 
những giá trị lịch sử của nhân loại, có 
sự phù hợp nhất định trong điều kiện 
lịch sử và xu hướng của nền chính trị 
hiện đại. Ngoài ra những đề xuất của 
ông về vai trò của phụ nữ, đạo đức và 
giáo dục, đặc biệt là quan điểm về 
quyền tự do, tự trị của con người có 
ảnh hưởng lớn đến đời sống học 
thuật và chính trị xã hội hiện thời, góp 
phần vào tiến trình phát triển lịch sử 
của nhân loại. 
Đối với Việt Nam hiện nay, trong quá 
trình hội nhập quốc tế, việc nghiên 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN – QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
12 
cứu, tiếp cận và tham khảo những học 
thuyết chính trị xã hội mang giá trị phổ 
quát từ các nước phát triển, trong đó 
có quan điểm về xã hội thực chứng 
của A. Comte là một trong những 
cách góp phần làm phong phú nền 
văn hóa của dân tộc, thúc đẩy đất 
nước phát triển.  
CHÚ THÍCH 
(1) 
Nhân đạo giáo là một tôn giáo thế tục thể hiện sự sùng kính nhân loại do chính A. Comte 
sáng lập. Nó có hệ thống tín ngưỡng và nghi lễ hoàn chỉnh, có nghi thức tế lễ và những bí 
tích, có cả những linh mục và giáo hoàng. Nhân đạo giáo dựa trên các nền tảng chính là: 
lòng vị tha, trật tự và tiến bộ. 
(2) 
Theo Mary Pickering, sau khi A. Comte qua đời, các tạp chí nghiên cứu về chủ nghĩa thực 
chứng lần lượt ra đời làm cho tư tưởng của ông có sự ảnh hưởng mạnh mẽ tại Pháp, Anh, 
Brazil, Nhật. 
(3) 
Trong nguyên tắc phân loại khoa học của mình, A. Comte cho rằng khoa học nào mang 
tính trừu tượng cao và những hiện tượng của nó càng đơn giản thì nó sẽ sớm đạt đến trình 
độ thực chứng và sự ra đời của nó sẽ sớm hơn các khoa học khác và ngược lại. Theo ông, 
có 6 khoa học được xếp theo thứ tự, trừu tượng nhất đến cụ thể nhất là toán học, thiên văn 
học, vật lý học, hóa học, sinh lý học và cuối cùng là xã hội học. 
(4) 
Charles Fourier (1772 - 1837) là một nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa nổi tiếng của Pháp 
nửa đầu thế kỷ XIX. Những học thuyết của ông trở thành một trong những tiền đề lý luận 
quan trọng để xây dựng học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học sau này. 
(5) 
Étienne Cabet (1788 - 1856) là một nhà triết học và nhà xã hội không tưởng người Pháp, 
người sáng lập ra phong trào Ician. Cabet trở thành người ủng hộ xã hội chủ nghĩa phổ biến 
nhất trong thời đại của ông. 
(6) 
Cardinal Mercier – Hồng y Mercier tên thật là Désiré-Joseph Mercier (1851 - 1926) là nhà 
giáo dục người Bỉ, hồng y, và một nhà lãnh đạo phong trào phục hưng triết học của Thomas 
Aquinas trong thế kỷ XIX. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bourdeau, M. 2018. “Auguste Comte. The Stanford Encyclopedia of Philosophy”. 
https://plato.stanford.edu/entries/comte/, truy cập ngày 20/6/2019. 
2. Comte, A. 1854. Système de politique positive ou Traité de sociologie instituant la 
religion de l'Humanité (Tome quatrième et dernier, contenant le Tableau synthétique de 
l'avenir humain). Paris: Carilian-Gœury et V. Dalmont. 
3. Comte, A. 1856. The Positive Philosophy (H. Martineau dịch). New York: Canvil 
Blanchard. 
4. Comte, A. 1908. A General View of Positivism. Translated by J. H. Bridges. London: 
George Routledge & Sons Limited. 
5. Đinh Ngọc Thạch (chủ nhiệm), Nguyễn Trọng Nghĩa, Doãn Chính. 2013. Các khuynh 
hướng chủ đạo trong triết học phương Tây hiện đại. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại 
học Quốc gia TPHCM. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
13 
6. https://en.wikipedia.org/wiki/%C3%89tienne_Cabet, truy cập ngày 9/8/2019. 
7. 
cong-nhan-quoc-te/cac-lanh-tu-va-cac-nha-lanh-dao-noi-tieng/charles-fourier-1772-
1837-3059, truy cập ngày 9/8/2019. 
8. Lưu Phóng Đồng (Lê Khánh Trường dịch). 2004. Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - 
Triết học phương Tây hiện đại. Hà Nội: Nxb. Lý luận Chính trị. 
9. C. Mác và Ph. Ăngghen. 2004. Toàn tập, tập 19. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
10. Mai Sơn. 2007. 101 triết gia. Hà Nội: Nxb. Tri thức. 
11. Mercier, C. 1917. A Manual of Modern Scholastic Philosophy (Vol. 2). London: 
Kegan Paul, Trench, Trubner & Co. 
12. Morichère, B. (Phan Quang Định dịch). 2010. Triết học Tây phương từ khởi nguyên 
đến đương đại. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin. 
13. Pickering, M. 1993. Auguste Comte: An Intellectual Biography (Vol. 1). Cambridge: 
Cambridge University Press. 
14. Pickering, M. 2009. Auguste Comte: An Intellectual Biography (Vol. 3). Cambridge: 
Cambridge University Press. 
15. Stumpt, S.E (Đỗ Văn Thuấn - Lưu Văn Hy dịch). 2004. Lịch sử triết học và các luận 
đề. Hà Nội: Nxb. Lao động. 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_auguste_comte_ve_xa_hoi_thuc_chung.pdf