Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức

Bài viết nhằm nêu rõ thực trạng phát triển của thị trường đồ gỗ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, những cơ hội và thách thức phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong những năm vừa qua nhu cầu đồ gỗ thế giới rất lớn và tăng trưởng ổn định trên 3%/năm, ngành đồ gỗ của Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận như: kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của ngành tăng nhanh; sản phẩm gỗ và đồ gỗ ngày càng phong phú và đa dạng; sản phẩm gỗ sản xuất ngày càng có gia tăng cao; được tiêu thụ ở nhiều quốc gia và thị trường lớn trên thế giới; nguyên liệu gỗ sử dụng cho sản xuất ngày được tự chủ và có nguồn gốc hợp pháp. Song đồ gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ mới chiếm một phần nhỏ so với thị phần của thế giới; ngành chế biến gỗ cũng gặp những thách thức là phải đối mặt với việc gia tăng xu hướng bảo hộ của Chính phủ các nước đối tác; sản phẩm xuất khẩu vẫn chủ yếu là sản phẩm thô; thị trường tiêu thụ nội địa chưa được khai thác triệt để và thiếu những chính sách hỗ trợ tiêu thụ nội địa. Bên cạnh đó, bài viết phân tích những cơ hội và thách thức của thị trường đồ gỗ nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế, trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị đối với Chính phủ, hiệp hội chế biến gỗ Việt Nam, các doanh nghiệp chế biến gỗ nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành chế biến gỗ trong thời gian tới

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 1

Trang 1

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 2

Trang 2

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 3

Trang 3

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 4

Trang 4

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 5

Trang 5

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 6

Trang 6

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 7

Trang 7

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 8

Trang 8

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 9

Trang 9

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang xuanhieu 2680
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức

Phát triển thị trường đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức
T VPA thể hiện cam kết của chính phủ sẽ tạo điều kiện cho ngành gỗ đẩy mạnh xuất 
loại bỏ hoàn toàn gỗ bất hợp pháp ra khỏi tất khẩu trong thời gian tới. 
cả các chuỗi cung, bao gồm cả chuỗi cung xuất 3.3.2. Về thách thức 
khẩu và tiêu thụ nội địa. Việc tham gia ký kết Bên cạnh những thuận lợi thì ngành chế 
các hiệp định song và đa phương giữa Việt biến gỗ cũng gặp những thách thức là phải đối 
Nam với các quốc gia và các khối liên minh mặt với việc gia tăng xu hướng bảo hộ của 
cũng như tham gia vào thương mại nội khối Chính phủ các nước đối tác. Thị trường Mỹ có 
AEC sẽ giúp duy trì và mở rộng thị trường cho luật Lacey, thị trường EU có kế hoạch tăng 
sản phẩm gỗ Việt Nam đối với các thị trường cường thực thi luật đối với gỗ và các sản phẩm 
lớn như Mỹ, EU, Australia, Nhật Bản, Trung gỗ nhập khẩu vào các quốc gia nội khối. Cụ 
Quốc, Châu Phi, AEC nâng cao hình ảnh thể, theo các qui định của FLEGT VPA, 
quốc gia và thương hiệu cho ngành chế biến nguyên liệu dùng để chế biến gỗ phải có nguồn 
gỗ. Cùng với đó, nền kinh tế Mỹ, EU, Nhật gốc xuất xứ, sản phẩm gỗ xuất khẩu sang EU 
Bản đang phục hồi nhanh chóng khiến nhu phải có chứng nhận chuỗi hành trình sản phẩm, 
cầu nhập khẩu đồ gỗ tăng cao. Việc Hoa Kỳ không được trộn lẫn các sản phẩm gỗ hợp pháp 
đang tạo áp lực về thuế chống phá giá đối với và chưa được xác minh. Chẳng hạn, nếu là gỗ 
Trung Quốc - quốc gia sản xuất đồ gỗ lớn nhất rừng trồng tại Việt Nam thì phải được khai 
thế giới, cũng tạo điều kiện thuận lợi để gia tăng thác theo đúng luật pháp Việt Nam, hoặc được 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 5 - 2019 167 
 Kinh tế & Chính sách 
cấp chứng chỉ quản lý rừng của một bên thứ ba chung chưa cao; hiện mới chỉ có khoảng 10% 
đáng tin cậy Để đáp ứng yêu cầu này, doanh doanh nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam đạt tiêu 
nghiệp trong ngành phải chuyên nghiệp hóa chuẩn quốc tế. Mẫu mã sản phẩm đồ gỗ Việt 
qui trình sản xuất, kinh doanh trên cơ sở tuân Nam còn đơn điệu, chưa thật sự phong phú, đa 
thủ luật pháp, bảo đảm nguồn gốc sản phẩm. dạng và còn lệ thuộc vào mẫu mã của nước 
Song thực tế phần lớn các doanh nghiệp chế ngoài, nên kém sức cạnh tranh. Nhiều doanh 
biến gỗ nước ta hiện có qui mô vừa và nhỏ, nghiệp, kể cả doanh nghiệp lớn vẫn chạy theo 
thường mua gỗ của dân không lưu lại hồ sơ. gia công, chưa chú trọng đến việc đầu tư công 
Các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất đồ xuất nghệ, đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề 
khẩu phải nhập đến 70 - 80% nguyên liệu gỗ cao, thiếu các nhà thiết kế các sản phẩm gỗ mang 
nhập khẩu, chi phí nhập khẩu gia tăng và hầu bản sắc riêng nhưng có tính công nghệ cao. 
như các doanh nghiệp chưa quản lý được toàn Trên 90% sản phẩm gỗ Việt Nam phải bán 
bộ quá trình vận chuyển gỗ nên khó chứng qua khâu trung gian và chủ yếu được sản xuất, 
minh được nguồn gốc xuất xứ. Nếu tình trạng gia công, chế biến theo sự đặt hàng và thiết kế 
này kéo dài, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ mẫu từ khách hàng nước ngoài. Theo Tổng cục 
không thể cạnh tranh nổi với những nước trong Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNN), hiện chỉ có 
khu vực có khả năng tự cung ứng nguyên liệu khoảng 300 doanh nghiệp chế biến gỗ FDI là 
như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia Xu có quy mô lớn, tạo ra khoảng 50% tổng kim 
hướng cạnh tranh các nước có xu hướng đặt ra ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ cả nước. Các 
các hàng rào kỹ thuật nhằm thắt chặt hơn việc doanh nghiệp FDI, liên doanh và một số doanh 
quản lý nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm gỗ, nghiệp trong nước có khả năng đầu tư công 
đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có chứng nhận nghệ, thiết bị tiên tiến có khả năng tự sản xuất 
FSC, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của sản theo thiết kế và có thể tìm kiếm thị trường tiêu 
phẩm các rào cản này làm cản trở quá trình thụ, nâng cao giá trị gia tăng. Còn lại, phần lớn 
khai thác, chế biến, làm gia tăng chi phí, khó các cơ sở chế biến gỗ có công nghệ, thiết bị 
khăn cho việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu, còn lạc hậu, chưa được đầu tư đúng mức về 
thị trường đầu ra đối với ngành chế biến gỗ. các công đoạn như sấy gỗ, hoàn thiện bề mặt 
 Mặc dù kim ngạch xuất khẩu lớn, tăng sản phẩm... 
trưởng nhanh qua các năm nhưng hệ số lợi Qui mô tiêu thụ của thị trường trong nước 
nhuận và giá trị gia tăng chưa cao mà nguyên còn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, thị 
nhân chính là do các doanh nghiệp chế biến gỗ trường nội địa đang bị bỏ ngỏ cho các nhà sản 
xuất khẩu lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập xuất xuất khẩu các nước láng giềng, đặc biệt là 
khẩu, không chủ động được sản xuất, phụ các nhà sản xuất đồ gỗ Đông Nam Á (thậm chí 
thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu gỗ có số liệu cho rằng đồ gỗ từ Trung Quốc, Đài 
nguyên liệu cũng như chính sách tỷ giá làm gia Loan, Hong Kong, Malaysia và Thailand 
tăng chi phí đầu vào. Chính vì vậy ngay từ bây chiếm khoảng 80% thị phần đồ gỗ Việt Nam, 
giờ các doanh nghiệp ngành gỗ cần phải tập ngành sản xuất nội địa chỉ cung cấp khoảng 10 
trung đầu tư cho vùng nguyên liệu, tận dụng - 20% nhu cầu trong nước). Tuy nhiên, trên 
nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, xây thực tế do không có số liệu thống kê đầy đủ về 
dựng qui trình sản xuất nguyên liệu gỗ bền các thị trường, đặc biệt thị trường khu vực 
vững đạt chứng chỉ yêu cầu do Mỹ, EU, nông thôn và tiêu dùng cá nhân ở thành thị (nơi 
AEC đặt ra, đặc biệt chú trọng đối với việc được cho là sử dụng nhiều đồ gỗ nội địa do thu 
đổi mới qui trình công nghệ sản xuất, nâng cao nhập hạn chế, ít khả năng tiêu thụ sản phẩm 
chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu) nên rất khó xác định chính xác thị 
khẩu Để chuẩn bị cho sự phát triển của phần tiêu thụ đồ gỗ nội địa. Hơn nữa, những số 
ngành thì đòi hỏi phải có sự đầu tư quyết liệt liệu gián tiếp về lượng tiêu thụ gỗ nguyên liệu 
của các doanh nghiệp trong ngành cũng như cho thấy một thực tế khác về thị phần của các 
cần có sự hỗ trợ đúng lúc, kịp thời để cho nhà sản xuất chế biến gỗ nội địa trên thị trường 
ngành chế biến gỗ phát triển mạnh và vươn ra Việt Nam có 340 làng nghề gỗ, bình quân mỗi 
thế giới. năm tiêu thụ gần 1 triệu m3 gỗ nguyên liệu và 
 Chất lượng mặt hàng gỗ Việt Nam nhìn sản phẩm từ các làng nghề này hầu hết chỉ 
168 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 5 - 2019 
 Kinh tế & Chính sách 
cung cấp cho sản xuất nội địa. Ngoài ra, các trợ các doanh nghiệp chế biến gỗ từ khâu tạo 
sản phẩm đồ gỗ xây dựng, gỗ gia dụng (cửa, tủ nguyên liệu đầu vào, thắt chặt và thực thi luật 
bếp, ván sàn...) hầu hết là sản phẩm nội địa do lâm nghiệp, kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc 
đồ gỗ nước ngoài giá cao, chỉ phù hợp với tầng nguyên liệu gỗ nhập khẩu, chính phủ cần tập 
lớp trung thượng lưu. Hiện Việt Nam mới có trung ưu tiên đầu tư vào các khâu như đào tạo 
một số ít hệ thống kênh phân phối nội địa, quy tay nghề, xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh 
mô nhỏ. Việc thiếu kênh phân phối là một nghiệp tìm kiếm thị trường trong và ngoài 
điểm yếu nhất của thị trường đồ gỗ Việt Nam nước, chú trọng tạo điều kiện để các doanh 
hiện nay (VIFORES). Nguyên nhân chính do nghiệp khai thác thị trường nội địa, đàm phán 
các cửa hàng bán lẻ đồ gỗ phần lớn là độc lập các hiệp định thương mai tự do đa và song 
theo kiểu bán buôn nhỏ hoặc tự sản tự tiêu, phương, kết nối các khâu trong chuỗi cung 
chưa có hệ thống kênh phân phối đủ mạnh để theo hướng tạo sự chuyển đổi đột phá trong mô 
phủ sóng cả nước và định hướng tiêu dùng nội hình phát triển, tiếp tục cải các thể chế, tạo môi 
địa. Bên cạnh đó còn thiếu những chính sách trường hành lang pháp lý thuận lợi cho các 
hỗ trợ phát triển thị trường nội địa. doanh nghiệp và kêu gọi đầu tư thúc đẩy ngành 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ chế biến gỗ phát triển. 
 Trong những năm qua ngành công nghiệp Đối với các Hiệp hội chế biến gỗ cần thu 
chế biến gỗ đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, thập thông tin về các nguồn cung cấp gỗ 
không ngừng tăng nhanh về số lượng, chất nguyên liệu hợp pháp, tuyên truyền ý thức 
lượng cũng như chủng loại sản phẩm. Các sản chấp hành và tuân thủ các qui định của các 
phẩm gỗ của Việt Nam không chỉ có uy tín và hiệp định mà Việt Nam đã ký kết, thành lập 
tiêu thụ trong nước mà được tiêu thụ ở hơn 120 các sàn giao dịch gỗ và các sản phẩm gỗ từ 
quốc gia trên thế giới với hơn 3.000 mặt hàng khâu đầu vào đến khâu đầu ra, tìm kiếm và hỗ 
sản phẩm các loại đưa Việt Nam trở thành một trợ các doanh nghiệp trong chuyển giao công 
trong năm nước có giá trị xuất khẩu đồ gỗ lớn nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tìm kiếm thị 
nhất thế giới. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trường trong và ngoài nước, xúc tiến thương 
trong hơn 10 năm vừa qua nhưng ngành chế mại làm cầu nối giữa doanh nghiệp với các 
biến gỗ vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém và sự cơ quan quản lý Nhà nước, cần kịp thời phản 
phát triển mang tính thiếu bền vững, cụ thể là ánh những kiến nghị, khó khăn, vướng mắc 
chất lượng sản phẩm sản xuất có giá trị chưa trong thực tiễn sản xuất, giúp cho cơ quan quản 
cao, thiếu thông tin trên thị trường, thiếu nguồn lý nhà nước nắm bắt và có các giải pháp kịp 
vốn đầu tư và máy móc thiết bị còn lạc hậu và thời, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi 
tay nghề của người lao động thấp, lao động cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. 
chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn, chưa Đối với các doanh nghiệp trong ngành chế 
có thương hiệu riêng cho sản phẩm, không chủ biến gỗ cần nâng cao nhận thức khi sử dụng 
động được nguồn nguyên liệu mà phụ thuộc nguồn nguyên liệu đầu vào hợp pháp, đa dạng 
nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập từ bên hóa mẫu mã sản phẩm, tăng cường sản xuất 
ngoài với khoảng 70 - 80% nhu cầu nguyên các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, tăng 
liệu gỗ của cả nước, sản phẩm bị cáo buộc về cường đào tạo và tự đào tạo nguồn nhân lực 
việc sử dụng nguồn nguyên liệu bất hợp pháp, chất lượng cao phục vụ sản xuất, đổi mới dây 
chưa khai thác hết khả năng vốn có để nâng truyền công nghệ, hiện đại hóa công nghệ sản 
cao hiệu quả, hầu hết các doanh nghiệp chế xuất, giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản 
biến gỗ đều có quy mô vừa và nhỏ, chưa có sự phẩm, tìm kiếm mở rộng thị trường nước ngoài 
liên kết với nhau đã khiến các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy xuất khẩu đồng thời đẩy mạnh 
gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với và khai thác tối đa thị trường trong nước, xây 
thế giới đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế dựng hình ảnh và thương hiệu, nâng cao năng 
thế giới hiện nay. lực sản xuất và hiệu quả kinh doanh. 
 Xuất phát từ những thách thức đặt ra đối với Để cho ngành chế biến gỗ phát triển nhanh 
ngành chế biến gỗ, cần có một số kiến nghị và tăng trưởng bền vững thì cần đòi hỏi có sự 
như sau: vào cuộc quyết liệt của Chính phủ và các Hiệp 
 Đối với Chính Phủ cần có các kế hoạch hỗ hội đóng vai trò hỗ trợ thúc đẩy, tạo môi 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 5 - 2019 169 
 Kinh tế & Chính sách 
 trường kinh doanh thuận lợi, ngoài ra cũng cần No.II. ISBN 978-967-5221-19-4. 
 có sự nỗ lực của các doanh nghiệp chế biến gỗ 6. Norchahaya Binti Hashim (2011): “Sustainability 
 trong việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhằm of Resources For Wood - Based Industry”by WBCSD’s 
 Sustainable Forest Products industry (SFPI) working 
 đưa sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đến tay người group and Bank of America. 
 tiêu dùng trong nước và vươn ra thị trường thế 7. Tô Xuân Phúc và cộng sự (2019): “Việt Nam xuất 
 giới, thúc đẩy tăng trưởng của ngành ngày nhập khẩu gỗ 2018: Một năm nhìn lại và xu hướng năm 
 càng nhanh và phát triển bền vững. 2019”. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES), 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh 
 1. Andrea Sujová1, Petra Hlaváčková1, Katarína (HAWA), Hội chế biến gỗ tỉnh Bình Dương (BIFA), 
Marcineková (2015) “ Evaluating the comparetitiveness Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định (FPA Bình Định) và 
of wood processing industry” DRVNA INDUSTRIJA Tổ chức Forest Trends. 
66 (4) 281-288 (2015). 8. Nguyễn Tôn Quyền (2015), “Thực trạng ngành 
 2. AGROINFO (2018), “Báo cáo thường niên ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam”. Hà Nội: Hiệp hội 
gỗ Việt Nam 2018 và triển vọng 2019”, Báo cáo thường chế biến gỗ Việt Nam. 
niên ngành gỗ của Viện Chính sách và Chiến lược - Bộ 9. Trần Văn Thắng và cộng sự (2011): “Thực trạng 
NN&PTNN. và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh 
 3. Bộ Công thương: Bản tin thị trường Nông, Lâm, nghiệp gỗ Việt Nam” được đăng trên Tạp chí Quản lý 
Thủy Sản. kinh tế, số 38, 12/2011 ĐH Cần Thơ. 
 4. Chính Phủ (2019), “Tài liệu báo cáo ngành công 10. Trang web: 
nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ, lâm sản năm 2018 - + Tổng cục hải quan: 
thành công, bài học kinh nghiệm; giải pháp bứt phá năm (https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQua
2019”. Hà Nội, ngày 22/02/2019. 
 n/Default.aspx); 
 5. H.Norini and A.R.Rohana (2009) “Wooden furniture 
 + Tổng cục thống kê: 
industry productivity, cost of production for certain selected 
 (https://www.gso.gov.vn/xnkhh/) 
products, primary imput content and policiés for 
sustainability”. PD 192/03 Rev.3 (M) Technical Report 
 DEVELOPING VIETNAM'S WOODEN MARKET IN THE CONTEXT 
 OF INTERNATIONAL INTEGRATION: 
 OPPORTUNITIES AND CHALLENGES 
 Tran Van Hung1, Vu Thu Huong1 
 1Vietnam National University of Forestry – Southern campus 
 SUMMARY 
 The paper aims to clarify the current situation developing of Vietnam's wooden furniture market in the context 
 of international integration. The research results show that, in recent years, the world demand for furnitures are 
 very large and grows steadily over 3%/year, Vietnam's wooden furniture industry has had a strong development 
 and achieved remarkable achievements: export turnover increased rapidly; wooden products and wooden 
 furniture are increasingly abundant and diverse; the wooden products with high added value; consumed in 
 many countries and major markets around the world; the timber industry is increasingly autonomous in terms 
 of production materials and legal timber. But Vietnam's wooden products and wood products account for only a 
 small portion of the world market share; the wood processing industry also faces challenges of facing increased 
 protectionism by partner governments; export products are still mainly raw products; the domestic consumption 
 market has not been fully exploited and there is a lack of policies to support domestic consumption. Besides, 
 the article also analyzes the opportunities and challenges of our wooden furniture market in the context of 
 international integration. Stemming from all these facts, this article proposes some recommendations to the 
 Government, Vietnam wood processing association and wood processing enterprises to promote the 
 development of wood processing industry in the coming time. 
 Keywords: Challenges, developments, furniture market, international integration, opportunities. 
 Ngày nhận bài : 23/8/2019 
 Ngày phản biện : 14/10/2019 
 Ngày quyết định đăng : 21/10/2019 
 170 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 5 - 2019 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_thi_truong_do_go_cua_viet_nam_trong_boi_canh_hoi.pdf