Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khuyến lâm góp phần bảo vệ và phát triển rừng
Nguồn nhân lực khuyến nông có vai trò quan trọng trong việc triển khai và thực hiện các hoạt
động khuyến nông, góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn, quản lý bảo vệ
rừng. Bài tham luận đã dựa trên thực trạng nguồn nhân lực khuyến nông hiện nay, nghiên cứu thực tiễn
tại Trường Đại học Lâm nghiệp để mô tả thực trạng phát triển nguồn nhân lực khuyến nông hiện nay.
Qua đó cho thấy thực trạng về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực hiện nay đang đứng trước
những khó khăn, thách thức; nhất là đối với các cơ sở đào tạo. Nguyên nhân được xem xét từ nhiều
phía, bao gồm sự thay đổi cơ chế chính sách, sự hấp dẫn ngành nghề, những khó khăn trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp, Từ đó định hướng các giải pháp trong việc khắc phục các khó khăn và phát triển
nguồn nhân lực trong thời gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khuyến lâm góp phần bảo vệ và phát triển rừng
ực tế cho thấy nhu cầu về cán bộ được đào tạo qua các trường này là rất lớn, nhưng hầu hết các trường lại có sức hấp dẫn thấp, công tác tuyển sinh đều gặp nhiều khó khăn. Vậy nguyên nhân do đâu? Đặc biệt năm 2017 Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã ảnh hưởng rõ rệt đến công tác tuyển dụng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khuyến nông. Trong đó Nghị quyết này nêu rõ về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: sắp xếp lại, giảm mạnh đầu mối và nâng cao hiệu quả hoạt động các đơn vị sự nghiệp. Hợp nhất trạm chăn nuôi và thú y, trạm trồng trọt và bảo vệ thực vật, trạm khuyến nông, khuyến ngư, cấp huyện thành trung tâm dịch vụ nông nghiệp trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và chuyển một số chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước ở các đơn vị này về phòng nông nghiệp (hoặc phòng kinh tế) cấp huyện. Sáp nhập các cơ quan tương ứng ở cấp tỉnh, đưa chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan này về Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Rà soát, sắp xếp lại, kiện toàn các ban quản lý rừng phòng hộ theo hướng tinh gọn, hiệu quả [1]. Từ năm 2017 cho đến nay, nhiều địa phương đã và đang sắp xếp lại bộ máy ngành nông nghiệp, trong đó có hệ thống khuyến nông. Điều này đã làm giảm cơ hội việc làm và sức hấp dẫn ngành nghề về lĩnh vực khuyến nông của các trường Đại học khi tuyển sinh. Đồng thời cũng tạo tâm lý lo lắng, không yên tâm học tập và công tác đối với các sinh viên của ngành. Thực tế nhiều sinh viên đã nghỉ học, chuyển ngành vì không tìm thấy cơ hội việc làm tại cơ quan nhà nước hoặc thuộc diện tinh giảm biên chế. Một trong những thực trạng phổ biến hiện nay là tâm lý phổ biến của các lao động đã được đào tạo có chất lượng cao không muốn về nông thôn, họ bám trụ ở đô thị để có cơ hội việc làm và mức lương cao hơn. Tâm lý này được tạo ra bởi thực tế khách quan là nông thôn không có đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật để sử dụng người 121 lao động tay nghề cao, các cá nhân ít có cơ hội thăng tiến về nghề nghiệp cũng như phát huy được tính năng động sáng tạo. Sức hấp dẫn ngành nghề không cao cũng là lý do làm giảm lượng sinh viên của khối ngành nông lâm nói chung và ngành khuyến nông nói riêng. Đại bộ phận cha mẹ học sinh, nhất là các phụ huynh vùng nông thôn sống bằng nghề nông nghiệp đều mong muốn con cái làm nghề khác. Thí sinh vùng nông thôn, miền núi chọn học các ngành nông - lâm - ngư ngày càng giảm do suy nghĩ của thế hệ trẻ muốn thoát ly nông nghiệp vì hiểu chưa đúng đầu ra việc làm. Cũng có một số gia đình khó khăn cho con đi lao động để kiếm tiền thay vì bỏ thời gian và chi phí học đại học. Bên cạnh đó, sự phát triển nông nghiệp ở nhiều nơi đặc biệt khu vực miền núi còn rất chậm, chủ yếu sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và đơn giản, trình độ phát triển sản xuất chưa cao. Nhu cầu lao động vẫn dừng lại ở sử dụng lao động chân tay, không có/hoặc rất ít nhu cầu sử dụng lao động kỹ thuật cao và phức tạp, nên nguồn lao động có kiến thức và tay nghề ở nông thôn trở nên bị dư thừa. Vấn đề này cũng gây cản trở đến công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực khuyến lâm. 2. KẾT QUẢ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG KHUYẾN NÔNG LÂM VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP Trường Đại học Lâm nghiệp được phép đào tạo ngành khuyến nông và PTNT từ năm 2006, bộ môn Nông lâm kết hợp, khoa Lâm học là đơn vị quản lý trực tiếp ngành học này. Vào năm 2013 tên ngành đào tạo đã thay đổi, từ “Khuyến nông và PTNT” sang ngành “Khuyến nông” do nhu cầu phát triển của xã hội và định hướng của bộ môn. Năm 2016, do sự sáp nhập 2 bộ môn Khuyến nông và PTNT, khoa Lâm học và bộ môn Quản lý đất đai, khoa Kinh tế & Quản trị kinh doanh thành Viện Quản lý đất đai và PTNT. Bộ môn Khuyến nông và Khoa học cây trồng thuộc Viện Quản lý đất đai và PTNT trực tiếp quản lý ngành Khuyến nông. Hiện nay số giảng viên cơ hữu tại bộ môn Khuyến nông và Khoa học cây trồng là 02 người, số giảng viên kiêm giảng là 05 người. 85,7% giảng viên cơ hữu, giảng viên kiêm giảng có trình độ thạc sỹ, còn lại 14,3% có trình độ tiến sỹ. Kể từ năm 2006 đến nay, Viện Quản lý đất đai và PTNT đã và đang tham gia đào tạo tổng số 279 sinh viên chính quy bậc đại học, 17 sinh viên hệ vừa làm vừa học (K2 Khuyến nông Bắc Yên, khoá học 2014 - 2019). 122 Hình 1. Kết quả đào tạo nhân lực lĩnh vực khuyến nông lâm tại Trường Đại học Lâm nghiệp từ năm 2006 đến tháng 5 năm 2020 Kết quả cho thấy, số lượng sinh viên ngành Khuyến nông và PTNT, ngành Khuyến nông có sự thay đổi lớn và không ổn định trong 14 năm từ năm 2006 cho đến nay. Năm 2006 có 56 sinh viên, số lượng duy trì và tương đối ổn định đến năm 2014 cao nhất là 73 sinh viên. Sau năm 2014 số lượng sinh viên sụt giảm mạnh, hiện nay còn khóa 62 Khuyến nông có 03 sinh viên. Tình hình tuyển sinh ngành khuyến nông ở các trường Đại học khác trong cả nước thời gian qua cũng gặp phải vấn đề tương tự. Như vậy, điều này cho thấy trong tương lai tại Trường Đại học Lâm nghiệp nói riêng và các cơ sở đào tạo nói chung có thể không đào tạo được sinh viên ngành Khuyến nông, dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khuyến nông lâm và quản lý bảo vệ rừng. Việc đào tạo nhân lực ở Trường Đại học Lâm nghiệp trong lĩnh vực khuyến nông, PTNT có những điểm mạnh và tồn tại như sau: - Về nội dung chương trình đào tạo: Theo khung chương trình đào tạo ngành Khuyến nông đã được phê duyệt năm 2017, với thời gian đào tạo 4 năm người học phải hoàn thành khối lượng kiến thức tối thiểu là 140 tín chỉ. Kiến thức giáo dục đại cương là 52 tín chỉ bao gồm Lý luận chính trị, Ngoại ngữ, Tin học, Khoa học tự nhiên, Công nghệ và môi trường. Khối kiến thức về Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng được tính riêng theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp gồm 78 tín chỉ, trong đó kiến thức cơ sở 25 tín chỉ, kiến thức tự chọn 04 tín chỉ, kiến thức ngành 43 tín chỉ. Trong kiến thức cơ sở ngành và kiến thức ngành đều có chia thành kiến thức bắt buộc và kiến thức tự chọn. Sinh viên có 10 tín chỉ làm khoá luận tốt nghiệp và 10 tín chỉ dành cho đợt thực tập nghề nghiệp. Nội dung chương trình học về cơ bản khá hợp lý. Sinh viên ngành khuyến nông được tiếp cận với các kiến thức đa dạng về kinh tế kỹ thuật nông lâm nghiệp, chính sách PTNT đặc biệt là hàng loạt môn học thuộc nhóm phương pháp, kỹ năng đào tạo, tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền, xây dựng mô hình trình diễn trong khuyến nông Tuy nhiên có một số môn học còn mang tính trùng lặp về nội dung. 123 - Về công tác tổ chức đào tạo Việc tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ. Sinh viên đăng ký vào các lớp tín chỉ theo từng học kỳ chính thức và các lớp học bổ sung để học lý thuyết, thực hành và bài tập. Thực tập nghề nghiệp được bố trí theo đợt ở cuối học kỳ 5, 6, 7. Sinh viên làm tốt nghiệp hoặc học và thi 10 tín chỉ để tốt nghiệp. Thực tế cho thấy trong 5 năm trở lại đây, số lượng sinh viên ngành Khuyến nông giảm mạnh (quy mô lớp dưới 10 người) thì giảng viên có điều kiện được tiếp xúc và quan tâm sâu sắc đến việc học của từng sinh viên. Mặt khác số lượng sinh viên ít lại gây khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động thực hành, thực tập, thậm chí việc tổ chức thảo luận nhóm trên lớp đôi khi cũng không tạo được không khí học tập. Thời gian để sinh viên tiếp cận với các cơ sở sản xuất, các cơ quan khuyến nông còn ít dẫn đến sinh viên còn thiếu nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Năm 2020 nhà trường có đổi mới trong việc tổ chức đào tạo thông qua việc bố trí học kỳ doanh nghiệp. Ngành Khuyến nông cũng đã xây dựng bảng thực trạng và đề xuất các giải pháp bố trí học kỳ doanh nghiệp, tập trung vào đợt thực tập nghề nghiệp 3 và đợt thực tập tốt nghiệp đang chờ nhà trường phê duyệt, dự kiến áp dụng cho K62 Khuyến nông. Trong đó tập trung vào việc liên kết với các cơ quan thuộc hệ thống khuyến nông như: trung tâm khuyến nông các tỉnh, trạm khuyến nông các huyện; các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao có liên quan đến hoạt động khuyến nông: trường, viện, doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại,góp phần vận dụng kiến thức, nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên. - Về giáo trình, bài giảng, tài liệu học tập Hầu hết các môn học của ngành Khuyến nông đều có hệ thống bài giảng phong phú. Tuy nhiên số lượng giáo trình phục vụ cho giảng dạy các môn chuyên ngành còn rất ít. - Về trang thiết bị thí nghiệm, thực hành, thực tập Về cơ bản các điều kiện về trang thiết bị thí nghiệm, thực hành cho các môn học đại cương như Hoá học, Sinh học đảm bảo tốt. Năm 2018, Nhà trường đã quan tâm tạo điều kiện cho Viện Quản lý đất đai và PTNT xây dựng khu vườn ươm cho sinh viên thực hành và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên khu vườn ươm diện tích nhỏ, bộ môn chưa có điều kiện đầu tư các mô hình trình diễn trong khuyến nông mang tính bài bản, chưa có mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. - Về đội ngũ giảng viên Đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy ngành học Khuyến nông đều có trình độ thạc sỹ, và nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy. Đặc biệt các giảng viên đã có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo, các hoạt động tư vấn về khuyến nông lâm và PTNT. Tuy nhiên việc tiếp cận để xây dựng các mô hình trình diễn về khuyến nông thì còn hạn chế. 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHUYẾN NÔNG LÂM, PTNT PHỤC VỤ QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Trước những vai trò của khuyến nông đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp và phân tích thực trạng về đội ngũ nhân lực khuyến nông ở hiện tại và tương 124 lai cho thấy yêu cầu cấp bách cần có giải pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong khuyến nông, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, quản lý và bảo vệ rừng giai đoạn hiện nay. Về phía Nhà nước + Cần có sự điều chỉnh, bổ sung các chính sách trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp nói chung và đào tạo ngành khuyến nông nói riêng, thông qua việc đầu tư cho các cơ sở giáo dục đào tạo; cơ chế đãi ngộ đối với cán bộ đặc biệt đối với địa bàn nông thôn, vùng miền núi; tăng nguồn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, + Có định hướng chính sách vào việc đãi ngộ nhân tài phục vụ ở nông thôn, nông nghiệp, nhằm thu hút người giỏi quản lý và lãnh đạo về với nông thôn, từ đó phá bỏ tính cục bộ địa phương và kích thích sự vươn của nông thôn trong phát hiện và đào tạo nhân tài. + Có cơ chế chính sách cụ thể để thu hút nguồn nhân lực lĩnh vực khuyến nông và phát triển nông thôn Về phía các trường Đại học, Cao đẳng có đào tạo ngành Khuyến nông + Tại các cơ sở đào tạo, cần chủ động áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo chuyên gia trong lĩnh vực khuyến nông. + Trong công tác đào tạo sinh viên ngành khuyến nông tại các trường Đại học, cao đẳng cần liên tục cập nhật thông tin, bổ sung biên soạn bài giảng, giáo trình phù hợp với thực tiễn và yêu cầu mới của nền nông nghiệp. Điều chỉnh chương trình đào tạo, giảm tỷ trọng lý thuyết và tăng thực hành theo hướng tiếp cận thực tế, liên kết doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo nguồn nhân lực theo hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong hoạt động giảng dạy, theo hướng hiệu quả, thiết thực. + Trong công tác tuyển sinh cần đổi mới hình thức và các phương án quảng bá tuyển sinh, hoạt động tư vấn ngành nghề đến phụ huynh học sinh. + Thúc đẩy liên kết với các cơ sở giáo dục, cơ sở sản xuất theo định hướng học kỳ doanh nghiệp, thực tập nghề nghiệp, thực hành sản xuất. + Liên kết đào tạo với các trường Đại học trên thế giới, triển khai thực tập sinh ở nước ngoài. Về phía các địa phương + Cần có cơ chế chính sách thu hút cán bộ có năng lực, tay nghề để bổ sung nguồn cán bộ trẻ cho các địa phương, các cơ sở nghiên cứu, các HTX kiểu mới và doanh nghiệp lớn đầu tư vào ngành nông nghiệp. + Huy động các nguồn lực xã hội để hỗ trợ thúc đẩy các hoạt động khuyến nông, ưu tiên công tác đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động; ưu tiên hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp, HTX khởi nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có dự án ứng dụng công nghệ cao và doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu liên kết với nông dân 125 + Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ khuyến nông, đặc biệt là cán bộ kỹ thuật tham gia công tác tập huấn, đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn + Tăng cường đào tạo chuyên môn kỹ thuật, phương pháp khuyến nông cũng như nghiệp vụ và trình độ tổ chức, giám sát, quản lý các hoạt động khuyến nông cho cán bộ khuyến nông. + Tiếp tục đẩy mạnh việc gắn kết hệ thống khuyến nông giữa các địa phương với cấp tỉnh, Trung ương; nhân rộng, chuyển giao các mô hình khuyến nông hiệu quả, đổi mới hoạt động đào tạo về kỹ năng, phương pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác khuyến nông. 4. KẾT LUẬN Đào tạo nguồn nhân lực khuyến nông cho phát triển nông nghiệp nông thôn và quản lý bảo vệ rừng là công việc quan trọng không thể xem nhẹ trong chiến lược phát triển đất nước nói chung, cho phát triển nông thôn nói riêng. Tình hình nguồn nhân lực khuyến nông hiện nay đang đứng trước những khó khăn và thách thức, tạo ra sức ép cho công tác đào tạo, các cơ sở đào tạo và sự phát triển của ngành trong tương lai. Giải quyết vấn đề này, rất cần có những giải pháp tổng hợp, đồng bộ từ cơ chế chính sách của Nhà nước, các cơ sở đào tạo, các địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 19/NQ-W ngày 25 tháng 10 năm 2017 Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Khoá XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. 2. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2014), Quyết định số 1323/QĐ-BNN-TCCB ngày 17 tháng 06 năm 2014 về Phê duyệt đề án Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2014 - 2020. 3. Thủ tướng chính phủ (2018), Nghị định 83/NĐ-CP ngày 24 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ về Khuyến nông. 4. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/7/2011 về Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. 5. Trường Đại học Lâm nghiệp (2017), Khung chương trình đào tạo Đại học ngành Khuyến nông. 6. Trường Đại học Lâm nghiệp (2019), Hội thảo: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất lâm nghiệp”. 7.https://www.mard.gov.vn/Pages/hoi-nghi-tong-ket-cong-tac-khuyen-nong- nam-2019-va-trien-khai-ke-hoach-nam-2020.aspx. 8. https://hueuni.edu.vn/portal/vi/. 126
File đính kèm:
- phat_trien_nguon_nhan_luc_trong_linh_vuc_khuyen_lam_gop_phan.pdf