Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ

Nhiểm nhân thọ của nhóm khách hàng hưu trí dựa vào cuộc khảo sát 295 đáp viên trên địa bàn ghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua bảo

thành phố Cần Thơ. Công cụ phân tích thống kê mô tả và kỹ thuật ước lượng hồi quy Probit và Tobit được

sử dụng trong phân tích dữ liệu, kết quả phân tích cho thấy các yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định mua

bảo hiểm nhân thọ như: giới tính, tuổi, trình độ học vấn, số thành viên trong gia đình, thu nhập bình quân,

tiền tiết kiệm bình quân, và yếu tố ảnh hưởng từ người thân. Bên cạnh đó các yếu tố như: trình độ học vấn,

tiền tiết kiệm và ảnh hưởng của người thân là những yếu tố ảnh hưởng đến mức phí chi trả cho bảo hiểm

nhân thọ của người hưu trí.

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 1

Trang 1

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 2

Trang 2

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 3

Trang 3

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 4

Trang 4

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 5

Trang 5

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 6

Trang 6

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 7

Trang 7

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 8

Trang 8

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 9

Trang 9

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang duykhanh 21180
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ

Phân tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại thành phố Cần Thơ
QNK{QJFyêQJKƭDWKӕng kê 
(***): êQJKƭDWKӕng kê ӣ mӭc 1% 
(**): êQJKƭDWKӕng kê ӣ mӭc 5% 
(*): êQJKƭDWKӕng kê ӣ mӭc 10% 
- NHT nữ có xu hướng tham gia dịch vụ BHNT 
cao hơn so với NHT nam giới, điều này xuất phát từ 
việc phụ nữ ngày càng có cơ hội tham gia vào thị 
trường lao động nhiều hơn và tự chủ động được 
nguồn thu nhập so với những thập niên trước - phụ 
nữ hạn chế tham gia thị trường lao động. Hơn nữa, 
phụ nữ tham gia BHNT với mức chi phí thấp hơn so 
với trường hợp của nam giới, do liên quan đến tỷ lệ 
bệnh tật thấp hơn và tuổi thọ cao hơn. Kết quả phân 
tích này khá tương đồng với kết quả khảo sát tham 
gia BHNT tại TP Hồ Chí Minh của Võ Thị Thanh 
Loan (2005). 
Liên quan đến độ tuổi, rõ ràng rằng người tham 
gia BHNT có độ tuổi còn trẻ sẽ có lợi hơn về mức 
chi phí. Theo thông tin từ công ty BHNT Generali 
tại Việt Nam cho thấy mức chi phí tham gia BHNT 
tăng dần theo độ tuổi, chỉ 7% ở tuổi 25 lên đến 44% 
ở tuổi 65; sự tăng dần mức chi phí gắn liền với mức 
tăng về tỷ lệ mắc bệnh khi ngày càng lớn tuổi. Kết 
quả khảo sát của Di Matteo và Emery (2002) cũng 
đã đề cập đến mối quan hệ này. 
Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và quyết định 
mua BHNT của NHT được ước lượng và cho thấy 
khá tương đồng với những nghiên cứu trước đó 
(Huihui Wang, 2010 và, Min Li, 2008). Trong phân 
tích, trình độ học vấn của NHT được chia thành 3 
nhóm: tốt nghiệp THPT, sơ cấp và trung cấp, cao 
đẳng và đại học; trong đó, nhóm đáp viên có trình độ 
học vấn cao nhất được làm nhóm tham khảo (refer-
ence group) tương ứng với trị số 1 và các đáp viên ở 
2 nhóm còn lại sẽ nhận trị số 0. Kết quả ước lượng 
cho thấy chênh lệch về trình độ học vấn càng lớn 
càng thể hiện ảnh hưởng đến quyết định mua BHNT 
càng lớn cao; cụ thể là, những NHT có trình độ học 
vấn cao đẳng trở lên thể hiện quyết định mua BHNT 
cao hơn so với những NHT có trình độ học vấn thấp 
hơn. Hệ số ước lượng này sẽ được thu hẹp đối với 
những NHT có trình độ học vấn cao hơn. Điều này 
tiếp tục khẳng định trình độ học vấn góp phần nhận 
thức về BHNT và tác động đến hành vi mua BHNT. 
- Số người phụ thuộc (số con) trong gia đình thể 
hiện sự ảnh hưởng đến tích cực đến tham gia BHNT 
của NHT tại địa bàn nghiên cứu. Thực tế cho thấy 
BHNT đáp ứng được hai mục tiêu quan trọng của 
cha mẹ, đó là vừa bảo vệ, chăm sóc sức khỏe và vừa 
tiết kiệm quỹ học vấn trong tương lai của con. Kết 
quả phân tích trong nghiên cứu gần đây của Lê Long 
Hậu (2017) cũng đã nhấn mạnh mối quan hệ này. 
- Bên cạnh đó, các yếu tố kinh tế - thu nhập, tiết 
kiệm, hình thức đầu tư - đã thể hiện được xu hướng 
ảnh hưởng đến quyết định mua BHNT chưa rõ ràng. 
Cụ thể là, NHT có thu nhập cao hơn thì không có xu 
hướng mua BHNT. Điều này có thể được giải thích 
bởi các nguyên nhân sau: thứ nhất, mức chi phí tham 
gia khá cao hơn so với những người trẻ tuổi như đã 
trình bày; thứ hai, những sản phẩm BHNT dành cho 
NHT hoặc cao tuổi bị hạn chế về quyền lợi trong 
khám chữa bệnh và ít đa dạng so với nhóm người trẻ 
tuổi; thứ ba, mức thu thập hàng tháng của NHT 
tương đối thấp (khoảng 6,2 triệu đồng) trong khi đó 
mức chi phí tham gia BHNT thường thấp nhất từ 1 
triệu đồng/tháng, cho nên NHT khó quyết định tham 
gia BHNT với mức thu nhập hạn chế như thế. Tuy 
nhiên, đối với những NHT có tiền tiết kiệm được từ 
thu nhập thì họ sẵn sàng tham gia BHNT như một 
cách để vừa phòng ngừa rủi ro và vừa tiết kiệm. 
- Đáng chú ý, sự ảnh hưởng, tác động của người 
thân có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy quyết định mua 
BHNT của NHT. Hiện nay, hầu hết các công ty 
BHNT liên kết với ngân hàng (Bancassurance) và 
được đánh giá là kênh bán hàng đầy tiềm năng, hiệu 
quả cao cho công ty bảo hiểm tại thị trường các 
nước phát triển và Việt Nam nói riêng; điển hình 
như Manulife và Techcombank, ACB, AIA và Kiên 
Long, VP, Từ đây, khách hàng nói chung và NHT 
nói riêng sẽ được chuyên viên ngân hàng tư vấn về 
các sản phẩm BHNT bên cạnh những giao dịch ngân 
hàng truyền thống. Kết quả phân tích này tương 
đồng với kết quả được phát hiện trong nghiên cứu 
tại địa bàn TPCT của Vương Quốc Duy (2016). 
4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức 
chi phí mua BHNT 
Kết quả phân tích thống kê cho thấy NHT tham 
gia hợp đồng BHNT với mức phí dao động khá lớn 
từ 15 triệu đến 300 triệu đồng, trung bình ở mức 
72,6 triệu đồng/hợp đồng BHNT. Tuy nhiên, đa số 
NHT được khảo sát tham gia hợp đồng BHNT ở 
mức 50 triệu đồng (chiếm đến 35,3%), chỉ có 
43
?
Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
?18,7% NHT đóng phí ở mức 100 triệu đồng, và 
7,3% NHT mua hợp đồng BHNT với phí trên 200 
triệu đồng. Bảng 3 trình bày kết quả ước lượng của 
Phương trình 2 về các yếu tố ảnh hưởng đến mức 
chi phí tham gia hợp đồng BHNT của 150 NHT 
được khảo sát. 
Nhìn chung, mặc dù các yếu tố nhân khẩu học - 
tuổi, giới tính, hôn nhân - có ảnh hưởng đến quyết 
định tham gia hợp đồng BHNT (Bảng 4), nhưng 
chúng không thể hiện được mức ý nghĩa thống kê có 
ảnh hưởng đến mức chi phí tham gia hợp đồng 
BHNT. Điều này có thể đúc kết rằng nhân viên tư 
vấn BHNT cần quan tâm đến các yếu tố về điều kiện 
kinh tế như tiết kiệm, cũng như trình độ học vấn để 
tư vấn các gói sản phẩm BHNT phù hợp. Cụ thể là: 
- Những NHT có trình độ học vấn từ cao đẳng 
trở lên sẵn sàng tham gia hợp đồng BHNT với mức 
phí càng cao so với những NHT có trình độ học vấn 
thấp hơn. Điều này thật ra có thể giải thích liên quan 
đến mức thu nhập và tiết kiệm hàng tháng của NHT. 
Kết quả phân tích thống kê cho thấy những NHT có 
trình độ học vấn từ trung cấp hoặc thấp hơn có thu 
nhập trung bình ở mức 5,07 triệu đồng/tháng và mức 
tiết kiệm trung bình chỉ khoảng 330 ngàn đồng 
tháng; đáng chú ý, có hơn 60% NHT trong nhóm 
này không có thể tiết kiệm hàng tháng từ thu nhập 
của họ. Trong khi đó, những NHT có trình độ học 
vấn cao hơn có thu nhập trung bình gần 7 triệu 
đồng/tháng và họ có thể tiết kiệm khoảng 1 triệu 
đồng/tháng. 
- So với yếu tố thu nhập không có ý nghĩa thống 
kê, mức tiết kiệm hàng tháng thể hiện tác động tích 
cực và có ý nghĩa thống kê đến chi phí mua BHNT 
của NHT. Kết quả phân tích khá tương đồng với 
kết quả nghiên cứu của Li (2008) và Vương Quốc 
Duy (2016). 
- Tương tự như yếu tố ảnh hưởng đến quyết định 
mua BHNT, sự tư vấn, ảnh hưởng của người thân 
đóng vai trò quan trọng đến quyết định mua cũng 
như giá trị hợp đồng BHNT, có trường hợp NHT 
tham gia nhiều hợp đồng BHNT từ các công ty 
BHNT khác nhau, chủ yếu do mối quan hệ xã hội. 
Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng có đến 34,6% 
NHT được tư vấn, giới thiệu về sản phẩm BHNT từ 
Sè 145/202044
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 4: Kết quả ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí mua BHNT 
BiӃQÿӝc lұp HӋ sӕ ѭӟFOѭӧng ȕ MӭFêQJKƭD 
Giӟi tính -7,650 0,409ns 
Tuәi 0,822 0,468ns 
Tình trҥng hôn nhân -4,723 0,871ns 
THPT -49,486 0,068* 
6ѫcҩp, trung cҩp -45,250 0,064* 
Sӕ con 7,346 0,149ns 
Thu nhұp -2,758 0,413ns 
TiӃt kiӋm 10,726 0,013** 
ĈҫXWѭÿҩt 11,421 0,366ns 
ҦQKKѭӣQJQJѭӡi thân 21,070 0,028** 
Sӕ quan sát 150 
LR Chi2 (10) 37,10 
Prob>chi2 0,002 
Log likelihood -790,295 
Ghi chú: 
QVNK{QJFyêQJKƭDWKӕng kê 
(***): êQJKƭDWKӕng kê ӣ mӭc 1% 
(**): êQJKƭDWKӕng kê ӣ mӭc 5% 
(*): êQJKƭDWKӕng kê ӣ mӭc 10% 
người thân, bạn bè; chỉ thấp hơn 2,7 điểm phần trăm 
so với trường hợp tiếp nhận thông tin về BHNT từ 
các công ty BHNT (37,3%). 
5. Kết luận và hàm ý quản trị 
Kết quả khảo sát chọn mẫu từ 295 NHT trên địa 
bàn thành phố Cần Thơ liên quan đến quyết định và 
mức đóng góp chi phí BHNT với các công ty BHNT 
cho thấy một số điểm nổi bật sau đây: phần lớn NHT 
tham gia BHNT như là một hình thức vừa tiết kiệm, 
vừa đảm bảo khả năng chi trả liên quan đến sức khỏe 
trong tương lai. Mặc dù, nhận thức được tầm quan 
trọng của BHNT đối với đảm bảo tài chính, thu nhập 
thấp của NHT được xem như rào cản mang tính quyết 
định ảnh hưởng đến việc tham gia hay không hợp 
đồng BHNT. Đáng chú ý, những NHT có mức tiết 
kiệm hàng tháng từ 1 triệu đồng trở lên thể hiện khả 
năng tham gia BHNT cao hơn nhóm NHT còn lại. 
Bên cạnh đó, các yếu tố nhân khẩu học - giới 
tính, tuổi, trình độ học vấn - thể hiện tác động ý 
nghĩa đến quyết định tham gia BHNT; mặc dù chi 
phí tham gia hợp đồng BHNT còn phụ thuộc nhiều 
vào thu nhập cũng như tiết kiệm hàng tháng. Quan 
trọng nhất, sự tư vấn, giới thiệu của người thân đóng 
vai trò quyết định đến hành vi tham gia hợp đồng 
BHNT đối với NHT, bởi vì đa số NHT chưa tham 
gia BHNT xuất phát từ sự chưa hiểu rõ về BHNT, sự 
e ngại thủ tục, và kể cả e ngại bị lừa đảo. 
Nhìn chung, kết quả phân tích từ nghiên cứu này 
thể hiện khá tương đồng với các nghiên cứu được 
lược khảo thực hiện trong và ngoài nước; điển hình 
như nghiên cứu của Võ Thị Thanh Loan (2005), 
Vương Quốc Duy (2016), Lê Long Hậu (2017) , Li 
(2008), Wang (2010), Tuy nhiên, hạn chế của 
nghiên cứu này đó là chưa khai thác, phân tích mối 
liên hệ giữa quyết định tham gia BHNT với các giao 
dịch ngân hàng của NHT (cụ thể như tiết kiệm); bởi 
vì, hầu hết các công ty BHNT hợp tác với các ngân 
hàng để tạo mô hình kênh phân phối sản phẩm bảo 
hiểm cho khách hàng của ngân hàng 
(Bancassurance). 
Dựa vào kết quả phân tích nêu trên, một vài hàm 
ý quản trị liên quan đến thúc đẩy dịch vụ BHNT nói 
chung và dành cho người cao tuổi, NHT được chỉ ra 
như sau: 
- Thứ nhất, các công ty BHNT tăng cường hoạt 
động tư vấn về lợi ích của BHNT và hướng dẫn quy 
trình, thủ tục thực hiện hợp đồng BHNT, hoạt động 
công khai minh bạch, đa dạng hóa các gói sản phẩm 
phù hợp với thu nhập của từng nhóm đối tượng 
khách hàng; 
- Thứ hai, các công ty BHNT phối hợp với các 
điểm chi trả lương hưu (bưu cục) tổ chức những 
buổi hội thảo chuyên đề ngắn để tư vấn cho NHT về 
dịch vụ BHNT nhằm gia tăng sự hiểu biết và niềm 
tin của khách hàng đối với dịch vụ BHNT. 
- Thứ ba, tăng cường mở rộng kênh phân phối 
(Bancassurance) với nhiều ngân hàng, bởi vì mô 
hình phân phối này được đánh giá là kênh thị 
trường chiếm lĩnh thị trường dịch vụ bảo hiểm tại 
Việt Nam. Hơn nữa, khi khách hàng đến giao dịch 
tại ngân hàng thì chuyên viên có cơ hội tư vấn dịch 
vụ BHNT cho NHT tốt hơn và tạo được lòng tin đối 
với họ. 
- Thứ tư, đối với trường hợp NHT có thu nhập 
thấp (từ lương hưu trí), nghiên cứu xây dựng các mô 
hình đồng tương tác, hỗ trợ với sự tham gia từ các 
doanh nghiệp BHNT, tổ chức phi lợi nhuận trong và 
ngoài nước. Mục đích là nhằm đóng góp, chia sẻ 
mức phí BHNT cho những NHT có thu nhập thấp; 
kể cả, đóng góp từ nguồn hỗ trợ chăm sóc đối với 
người cao tuổi. Mô hình này đã triển khai thành 
công một vài quốc gia có dân số đông và thu nhập 
trung bình thấp như Philippines, Ấn Độ.u 
Tài liệu tham khảo: 
1. Bảo hiểm trực tuyến (2020), Có nên mua bảo 
hiểm cho người cao tuổi, https://ibaohiem.vn/co-
nen-mua-bao-hiem-nhan-tho-cho-nguoi-cao-tuoi/. 
2. Beck, T., & Webb, I (2003), Economic, demo-
graphic, and institutional determinants of life insur-
ance consumption across countries, The World 
Bank Economic Review, 17(1), 51-88. 
3. Bộ Tài chính (1996), Quyết định số 
568/TC.QĐ.TCCB “V/v thành lập Cty bảo hiểm 
nhân thọ", Hà Nội. 
4. Cục Thống kê thành phố Cần Thơ (2019), 
Niên giám thống kê, Cần Thơ. 
45
?
Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
5. Ćurak, M., Džaja, I., & Pepur, S. (2013), The 
effect of social and demographic factors on life 
insurance demand in Croatia, International Journal 
of Business and Social Science, 4(9), 65-72. 
6. Di Matteo, L., & Emery, J. H. (2002), Wealth 
and the demand for life insurance: evidence from 
Ontario, 1892, Explorations in Economic History, 
39(4), 446-469. 
7. Fortune, P. (1973), A theory of optimal life 
insurance: Development and test, The Journal of 
Finance, 28(3), 587-600. 
8. Frees, E. W., & Sun, Y. (2010), Household life 
insurance demand: A multivariate two-part model, 
North American Actuarial Journal, 14(3), 338-354. 
9. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2011), Cẩm 
nang bảo hiểm nhân thọ (dành cho khách hàng), 
Hà Nội: 
Bao%20hiem%20Nhan%20tho%20%20(revised%
202011).pdf. 
10. Iarossi, G. (2006), Sức mạnh của thiết kế 
điều tra, Chính trị Quốc gia. 
11. Jones, D. L. (1999), Organizing risky busi-
ness: The social construction and organization of 
life insurance, 1810 to 1980. 
12. Lê Long Hậu (2017), Quyết định tham gia 
bảo hiểm nhân thọ của cá nhân: Vai trò của thái độ 
đối với rủi ro và kiến thức tài chính, Khoa học 
thương mại, 110, 46 - 52. 
13. Li, M. (2008), Factors influencing house-
holds' demand for life insurance, University of 
Missouri-Columbia. 
14. Mahdzan, N. S., & Victorian, S. M. P. (2013), 
The determinants of life insurance demand: A focus 
on saving motives and financial literacy, Asian 
Social Science, 9(5), 274. 
15. Nguyễn Hoài Trâm Anh (2017), Các yếu tố 
ảnh hưởng đến ý định mua các sản phẩm bảo hiểm 
nhân thọ trên địa bàn thành phố Rạch Giá, Trường 
Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh. 
16. Shiferaw, A. (2017), Factors Affecting Life 
Insurance Demand: A case study on (Ethiopian 
Insurance Corporation) EIC, St. Mary's University. 
17. Sliwinski, A., Michalski, T., & Roszkiewicz, 
M. (2013), Demand for life insurance-An empirical 
analysis in the case of Poland, The Geneva Papers 
on Risk and Insurance-Issues and Practice, 38(1), 
62-87. 
18. Vân Trường (2019), Thị trường bảo hiểm 
nhân thọ 5 năm liên tiếp tăng trưởng cao, Tạp chí 
Tài chính: 
truong-bao-hiem-nhan-tho-5-nam-lien-tiep-tang-
truong-cao-314412.html. 
19. Võ Thị Thanh Loan (2005), Các yếu tố ảnh 
hưởng tới quyết định mua bảo hiểm nhân thọ trên 
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, 
Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 
20. Vương Quốc Duy (2016), Các nhân tố ảnh 
hưởng đến việc tham gia bảo hiểm nhân thọ của 
người dân Thành phố Cần Thơ, Khoa học Kinh tế và 
Quản lý, 1, 77 - 90. 
21. Wang, H. (2010), Factors influencing con-
sumers' life insurance purchasing decisions in 
China, Master of Science, University of Manitoba. 
22. Zietz, E. N. (2003), An examination of the 
demand for life insurance, Risk Management and 
Insurance Review, 6(2), 159-191. 
Summary 
The purpose of this study is to examine the 
attributed factors that affect life insurance purchase 
decisions of retirees, through the survey of 295 
respondents living in Can Tho city. On using 
descriptive statistical analysis and the Probit and 
Tobit regression models, the results indicate the 
main factors that affect the decision to buy life 
insurance are gender, age, marital status, education 
level, number of children, average income, saving 
money, and acquaintances. Factors such as educa-
tion level, savings and acquaintances have influence 
on the life insurance premium of the retired people 
in Can Tho city. 
Sè 145/202046
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_quyet_dinh_tham_gia_bao_hiem_nhan_tho_cua_nguoi_hu.pdf