Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp

Lực lượng lao động là tài sản lớn nhất của xã hội. Đào tạo người thợ giỏi, công nhân lành nghề

luôn là trọng tâm của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu

của ngành lâm nghiệp trong thời kỳ mới. Lâm nghiệp là lĩnh vực có lịch sử phát triển lâu đời và đã

được Nhà nước chú trọng phát triển việc đào tạo nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên

hiện nay, do sự phát triển về kinh tế đòi hỏi nhiều hơn về chất lượng, số lượng nguồn nhân lực phục

vụ cho ngành lâm nghiệp buộc các trường Đại học, Cao đẳng phải chuyển mình mạnh mẽ, đổi mới

phương pháp đào tạo, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra những nhân lực tốt nhất

cho ngành.

Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp trang 1

Trang 1

Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp trang 2

Trang 2

Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp trang 3

Trang 3

Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp trang 4

Trang 4

Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp trang 5

Trang 5

Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 2500
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp

Nhu cầu và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực đào tạo nghề trong lĩnh vực lâm nghiệp
 Bảng 1. Thành tựu trong công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực 
 Số lượng 
 STT Giai đoạn Ngành đào tạo Ghi chú 
 HSSV 
 Công nhân kỹ 
 1 1977 - 2000 12.000 Lâm sinh, Chế biến gỗ 
 thuật, bậc 3/7 
 Công nhân kỹ 
 5.000 Lâm nghiệp, Chế biến gỗ 
 2 2000 - 2010 thuật, bậc 3/7 
 1.200 Lâm nghiệp, Chế biến gỗ Trung cấp 
 Lâm nghiệp, Gia công và 
 357 Cao đẳng 
 thiết kế sản phẩm mộc 
 Lâm nghiệp, Gia công và 
 3 2010 - nay 1.150 Trung cấp 
 thiết kế sản phẩm mộc 
 3.056 Các nghề khối nông lâm Đào tạo ngắn hạn 
 Tổng cộng 22.460 
 29 
 Những năm trước năm 2010, nhu cầu đào tạo các ngành nghề về lâm nghiệp 
rất cao nên số lượng học sinh sinh viên nhà trường tuyển sinh được khá nhiều từ 
6.200 - 12.000 người. Tuy nhiên, từ năm 2010 trở lại đây, do sự chuyển dịch về cơ 
cấu nền kinh tế, học sinh sinh viên cũng chuyển hướng sang lựa chọn các ngành nghề 
ít lao động nặng nhọc, có tính kỹ thuật cao nên lượng HSSV tuyển sinh được ít hơn 
hẳn so với giai đoạn trước. 
2. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN, CƠ HỘI, THÁCH THỨC 
 Thuận lợi: 
 Nhân lực lao động trong ngành nông lâm trên cả nước nhiều, nhu cầu lao 
động phục vụ cho ngành nông lâm cao nên thuận lợi trong quá trình tuyển sinh. 
 Nhà trường được thành lập sớm, có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực đào 
tạo nguồn nhân lực trong ngành nông lâm nghiệp. 
 Giáo viên có tay nghề, trình độ cao, nhiệt tình, tâm huyết với nghề. 
 Cơ sở hiện trường thực hành thực tập nghề nghiệp phong phú, đáp ứng nhu 
cầu đào tạo. 
 Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho đào tạo nghề lâm nghiệp cao 
 Khó khăn: 
 Học sinh là con em nông thôn, miền núi nên nhận thức, tiếp thu khó. 
 Đặc thù nghề nghiệp lao động ngoài trời, vất vả nên giáo viên khó thu hút 
được nhiều giáo viên tài giỏi, tâm huyết. 
 Cơ hội: 
 Biến đổi khí hậu trên toàn thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, nhu cầu 
lao động trong ngành lâm nghiệp, trồng cây gây rừng để cải thiện khí hậu ngày càng 
được chú trọng. 
 Thách thức: 
 Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang dịch chuyển cơ cấu lao động từ các 
ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ ngày càng cao, nhu cầu 
nhân lực trong các ngành lâm nghiệp ngày càng giảm. 
 Các trường đại học trên cả nước mở ra ồ ạt, tâm lý người Việt Nam thích 
con em học đại học hơn là học nghề nên học sinh vào học các trường nghề giảm sút. 
 Lực lượng lao động thiếu các kỹ năng cần thiết như làm việc nhóm, giải 
quyết vấn đề, kỹ năng tin học, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp chưa cao, thiếu ý thức 
trách nhiệm và chậm thích nghi với môi trường mới, năng lực đổi mới và sáng tạo 
khoa học và công nghệ của lao động có trình độ cao còn nhiều yếu kém. 
 30 
3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, PHÁT TRIỂN 
NGUỒN NHÂN LỰC 
 Thứ nhất, CMCN 4.0 làm chuyển dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh 
tế. Với CMCN 4.0, những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động sẽ dần 
mất đi, đồng thời xuất hiện những ngành nghề mới. CMCN 4.0 đã cho ra đời các hệ 
thống tự động hóa và robot thông minh. Các hệ thống này sẽ thay thế dần lao động 
thủ công trong toàn bộ nền kinh tế gây áp lực lớn đối với thị trường lao động. Các 
quốc gia đang phát triển sẽ phải đối mặt với tình trạng dư thừa lao động và gia tăng 
tình trạng thất nghiệp. 
 Hiện nay, nguồn lao động của Việt Nam tương đối dồi dào nhưng chủ yếu là 
lao động tay nghề thấp, vì vậy dễ dàng bị thay thế bởi máy móc. Những công việc 
mang tính chất rập khuôn, lặp lại đơn giản mà đa phần lao động chưa qua đào tạo 
Việt Nam đang đảm nhận sẽ dần được thay thế bởi máy móc trong tương lai. 
 Bên cạnh việc mất dần những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao 
động, cuộc CMCN 4.0 cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới, gắn với đặc trưng của 
cuộc cách mạng này như: ngành điện tử, viễn thông, số hóa, kỹ thuật viên máy tính, 
an ninh mạng, in 3D Trong tương lai, những lao động bị mất việc làm do sự phát 
triển của robot và công nghệ tự động hóa sẽ dịch chuyển sang những ngành mới này. 
Tuy nhiên, không phải dễ dàng khi chuyển đổi ngành nghề, nhất là những ngành mới 
đòi hỏi nhiều tri thức. Với ngành lâm nghiệp, việc kết hợp đào tạo theo hướng truyền 
thống và đào tạo theo hướng mới, chuyên môn sâu, có chất lượng cao, gắn với các 
ngành công nghiệp tự động hoá đang là định hướng hàng đầu trong công tác đào tạo 
nguồn nhân lực trong giai đoạn mới. 
 Thứ hai, thị trường lao động phân hóa mạnh mẽ: Trong cuộc CMCN 4.0, lao 
động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới. Hàng loạt 
nghề nghiệp cũ mất đi, thị trường lao động quốc tế sẽ phân hóa mạnh giữa nhóm lao 
động có kỹ năng thấp và nhóm lao động có kỹ năng cao. Cùng với đó, sự ra đời của 
trí tuệ nhân tạo (robot thông minh) cũng làm giảm nhu cầu sử dụng lao động kỹ năng 
thấp. Đặc biệt, cuộc CMCN 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình 
độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ 
không được trang bị những kỹ năng mới - kỹ năng sáng tạo. Với sự phát triển công 
nghệ nhanh chóng trong tương lai, nhu cầu về lao động có trình độ và kỹ năng cao là 
một yêu cầu tất yếu. Từ việc nâng cao yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực, cuộc 
CMCN 4.0 còn làm thay đổi yêu cầu và phương pháp đào tạo nguồn nhân lực. Đào 
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chuẩn bị cho CMCN 4.0 đã trở thành vấn đề cấp 
bách mà nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và cũng là định hướng của trường CĐ 
Công nghệ và Nông lâm Nam Bộ. Những kỹ năng cần thiết để đào tạo cho nguồn 
nhân lực để sẵn sàng tham gia cuộc CMCN 4.0 sẽ là kỹ năng giải quyết vấn đề phức 
tạp, tư duy phản biện, sáng tạo, quản lý nguồn lực con người, phối hợp với đồng 
nghiệp, trí tuệ cảm xúc, đánh giá và đưa ra quyết định, định hướng dịch vụ, đàm 
phán, linh hoạt trong nhận thức. 
 31 
 Thứ ba, yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng cấp thiết: 
CMCN 4.0 yêu cầu nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, trong khi đó, nguồn 
nhân lực chất lượng cao của Việt Nam hiện nay lại thiếu hụt cả về số lượng và kỹ 
năng tay nghề. CMCN 4.0 là cuộc cách mạng số nhưng nhân lực chất lượng cao trong 
các ngành lâm nghiệp của Việt Nam đang quá ít. Lâm nghiệp là nghề đào tạo trọng 
điểm cấp quốc gia của Nhà trường. Với mục tiêu đưa lâm nghiệp là ngành trọng điểm 
cấp khu vực và quốc tế, hàng năm nhà nước và nhà trường đầu tư các trang thiết bị 
máy móc hiện đại, cập nhật khoa học công nghệ với vào giảng dạy học sinh, sinh 
viên. Các giảng viên cũng được đưa đi đào tạo nâng cao trình độ tại các quốc gia tiên 
tiến trên thế giới. 
 Thứ tư, cạnh tranh gay gắt về nguồn nhân lực: Trước hết, cạnh tranh sẽ xảy ra 
trong một số lĩnh vực công nghệ đang bắt đầu được ứng dụng rộng rãi vào thực tiễn 
như internet vạn vật, xe ôtô tự lái, Robotic và lĩnh vực lâm nghiệp. Nguồn nhân lực 
trong các ngành công nghệ đang được "săn lùng" ráo riết và trả mức lương “khủng”. 
Trong khi đó, nguồn nhân lực trong lĩnh vực lâm nghiệp công nghệ cao chưa có chỗ 
đứng vững trên thị trường, việc làm bấp bênh, mức lương chưa thoả đáng với chi phí 
người học học tập. 
4. GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, PHÁT TRIỂN NGUỒN 
NHÂN LỰC 
 Thứ nhất, tập trung xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể, hệ thống cơ 
chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: xây dựng chiến lược 
tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một chủ trương lớn, và là nhiệm 
vụ quan trọng, đòi hỏi cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng với một tư duy đột 
phá và tầm nhìn lâu dài, phù hợp với thực tiễn. Chiến lược phải xác định rõ mục tiêu, 
quy mô, lộ trình và những cơ chế, chính sách tổng thể. Trong đó, mục tiêu chiến lược 
phải ưu tiên khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu; 
xác định quy mô, số lượng và cơ cấu của từng loại nhân lực cho phù hợp. Chiến lược 
cũng xây dựng lộ trình thực hiện một cách hợp lý, có tính dự báo cao, xây dựng và 
hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao 
một cách toàn diện và đồng bộ. Cần xác định rõ đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm 
của cả hệ thống chính trị, trong đó cần sớm thống nhất nhận thức trong các đoàn thể 
chính trị - xã hội, trước hết là lực lượng nòng cốt đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh 
vực nghiên cứu và hoạch định chiến lược, chính sách, tác động của thời cơ và thách 
thức đối với nước ta từ CMCN 4.0. 
 Hệ thống cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng, tác động trực tiếp hoặc 
gián tiếp, tạo động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế - 
xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng. Trên thực tế, 
những năm qua, nước ta đã có nhiều cơ chế, chính sách mới có tác động tích cực đến 
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, 
các chính sách đó đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập, hiệu quả mang lại chưa tương 
xứng. Để tiếp tục phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có hiệu quả, đòi hỏi cần 
 32 
phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách 
nhằm tạo hành lang pháp lý, tạo thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực chất 
lượng cao ở nước ta trước tác động của cuộc CMCN 4.0. 
 Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự phát triển 
nguồn nhân lực chất lượng cao phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện 
như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, môi trường làm việc, chính sách việc 
làm, thu nhập, an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính 
sách phát triển thị trường lao động, các điều kiện nhà ở, sinh sống, định cư... nhà 
nước cần tiếp tục đổi mới thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý từ trung ương đến địa 
phương nhằm tạo môi trường thuận lợi phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát 
triển thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao; thị trường và sản phẩm khoa học - 
công nghệ theo hướng hội nhập, xây dựng môi trường pháp lý cho phát triển các 
ngành, nghề kinh doanh mới ở Việt Nam đang bắt đầu nảy sinh từ cuộc CMCN 4.0. 
 Cần có chính sách thỏa đáng để tạo nguồn lực và khai thác có hiệu quả nguồn 
lực mới, nhất là trong những ngành mũi nhọn về công nghệ của quốc gia; nâng cao 
chất lượng hoạt động của các vườn ươm công nghệ và DN công nghệ cao; có chính 
sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo 
trong các cơ sở đào tạo về công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu 
phát triển và chuyển giao công nghệ. Đồng thời, tăng cường sự hợp tác hiệu quả giữa 
Nhà nước, DN và các trường đại học thúc đẩy sự phát triển một số ngành chọn lọc, 
đặc biệt là công nghệ thông tin. 
 Thứ hai, gắn kết chặt chẽ giữa quá trình đào tạo với bồi dưỡng và sử dụng 
nguồn nhân lực chất lượng cao: Đảng ta khẳng định: “xây dựng chiến lược phát triển 
nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp 
đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong 
các nhà trường”. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao đối với nguồn nhân lực chất lượng 
cao. Vì vậy, các cơ sở đào tạo phải luôn coi trọng quản lý tốt chất lượng “sản phẩm 
đầu ra” thông qua các hình thức đánh giá năng lực thực hành của học viên trong quá 
trình đào tạo, phúc tra kết quả đào tạo, kết quả tốt nghiệp thay cho cách quản lý 
“sản phẩm đầu vào” như hiện nay. 
 Các cơ sở đào tạo cũng cần trang bị cho học viên, nghiên cứu sinh các kỹ năng 
cần thiết như: giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngoài, sử dụng công nghệ thông tin, 
sự sáng tạo, thích nghi, nắm bắt được xu thế phát triển của xã hội nhằm đảm bảo sự 
gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng, đáp ứng yêu cầu đang đặt ra. Việc lựa 
chọn nguồn đi đào tạo, bồi dưỡng không chỉ đặt lên hàng đầu tiêu chí về nhận thức 
mà còn phải rất coi trọng đến các vấn đề ngoại ngữ, tin học, bản lĩnh chính trị, đạo 
đức nghề nghiệp, năng lực lãnh đạo, quản lý. 
 Đặc biệt, các cơ sở đào tạo cần phải dân chủ, công khai các tiêu chí, hướng đi 
học và sử dụng cán bộ để làm tăng tính tích cực, chủ động cho cả người học và đơn vị 
sử dụng. Trong sử dụng nhân lực, không quá phụ thuộc vào vấn đề bằng cấp mà coi 
trọng đến hiệu quả công việc. Để đạt được, cần thường xuyên bồi dưỡng, rèn luyện 
 33 
đội ngũ này trong các hoạt động thực tiễn, sau đó mới bố trí, sử dụng theo đúng năng 
lực, trình độ nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của họ theo chuyên ngành đào tạo, khắc 
phục được tình trạng lãng phí hoặc chảy máu “chất xám” ở một số nơi hiện nay. 
 Thứ ba, tận dụng hiệu quả các cơ hội, nỗ lực đổi mới hệ thống giáo dục Việt 
Nam: Cụ thể là cần tiếp tục gia cố những yếu tố nền móng, đổi mới tư duy về phát 
triển giáo dục trong tổng thể chiến lược phát triển của quốc gia. Mục tiêu là đào tạo 
đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, cụ thể là 
chuyển từ biệt lập, tự phát về số lượng sang chất lượng, có kết nối giữa đào tạo và sử 
dụng lao động, từ cách đào tạo làm cho người học thụ động sang chủ động sáng tạo, 
không ngại đương đầu với khó khăn, thách thức. 
 Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý tạo môi trường thuận 
lợi phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển thị trường nguồn nhân lực chất 
lượng cao; thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phải phản ánh đầy đủ quan hệ 
cung - cầu, qua đó, làm căn cứ hoạch định chiến lược và chính sách. Bên cạnh đó, cần 
có chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp, đổi mới 
sáng tạo trong các trường đại học đào tạo về công nghệ; gắn kết chặt chẽ giữa các 
vườn ươm khởi nghiệp với trường đại học và DN... 
 Các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường liên kết với các DN, các trường đại 
học quốc tế để xây dựng các phòng thí nghiệm theo hình thức hợp tác công - tư; Xây 
dựng mô hình giáo dục 4.0 theo kịp xu hướng công nghệ hiện đại trong nền kinh tế 4.0. 
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Kết luận 
 Từ thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam, trên cơ sở những vấn đề mới nảy 
sinh từ cuộc CMCN 4.0, Trường Cao đẳng Công nghệ và Nông lâm Nam Bộ cần có 
những thay đổi để thích ứng và phù hợp xu thế của thời đại. Sự thành công hay thất 
bại, Nhà trường có tận dụng tốt thời cơ, hay vượt qua được những nguy cơ, thách 
thức từ cuộc CMCN 4.0 hiện nay hay không không phụ thuộc vào phương thức khai 
thác nguồn lực con người, nhất là việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực mà là 
định hướng đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ mới có đáp ứng nhu cầu của xã hội 
đặt ra hay không. 
Kiến nghị 
 Để đào tạo nguồn nhân lực ngành lâm nghiệp chất lượng cao đáp ứng nhu cầu 
cách mạng công nghiệp 4.0, cần tiếp tục đầu tư trang thiết bị, máy móc, đào tạo giảng 
viên đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời đại mới. Hơn 
hết, cần tập trung tuyên truyền, quảng bá tầm quan trọng của ngành nghề lâm nghiệp 
đến đông đảo người dân trên cả nước, từ đó thu hút người học có trình độ cao, có 
năng lực đáp ứng vị trí công việc trong thời đại mới. 
 34 

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_va_yeu_cau_chat_luong_nguon_nhan_luc_dao_tao_nghe_tr.pdf