Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế

Sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã đem

đến cho con người những đổi thay có tính đột phá trên

nhiều lĩnh vực. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, khả

năng hòa nhập được mở rộng và nhu cầu của con người

cũng không ngừng biến đổi về lượng lẫn về chất. Trong

giao tiếp, giáo dục, ứng dụng khoa học kĩ thuật hay cả

trong nghệ thuật, nhiều người trên thế giới đã chọn học

tiếng Anh để làm phương tiện mở cánh cổng tri thức, và

điều đó đã làm cho công tác dạy và học tiếng Anh trên toàn

thế giới trở thành một mối quan tâm lớn. Các nhà khoa

học, ngôn ngữ học và cả những người thực hành giảng dạy

đều mong muốn nghiên cứu tìm ra cách tiếp cận ngôn ngữ

này với những quan điểm hiện đại, để vừa hiểu được bản

chất vấn đề vừa khai thác những phương pháp tích cực

nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Trong xu hướng chung

về đào tạo tiếng Anh như một ngoại ngữ (Teaching

English as a Foreign Language - TEFL), đã có nhiều

nghiên cứu đề cập việc dạy và học tiếng Anh chuyên

ngành (TACN) (English for Specific Purposes - ESP)

cùng những thách thức về chương trình, giáo trình,

phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập loại hình

tiếng Anh có tính chuyên biệt này. Xét về lí thuyết, việc

đào tạo phải đạt được mục tiêu quy mô lớn về số lượng và

đạt chuẩn về chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu của một

đối tượng đào tạo đông đảo trong xã hội, và nhằm tạo ra

những sản phẩm đào tạo có chất lượng thật sự - có nghĩa

là người học phải dùng được tiếng Anh giao tiếp và

chuyên ngành trong công việc của họ sau khi tốt nghiệp.

Tuy nhiên, thực tế đào tạo TACN trong thời gian qua bộc

lộ những khó khăn và hạn chế về nhiều mặt; dẫn đến việc

nhiều cơ sở đào tạo không đạt được những mục tiêu mong

muốn cũng như lãng phí về mặt tài chính khi đầu tư cho

công tác này. Đứng trước những thách thức của toàn cầu

hoá và nền kinh tế thị trường, việc đào tạo chất lượng kém

và sản phẩm là những con người không thể sử dụng kiến

thức và tay nghề đã được đào tạo để làm việc và làm việc

hiệu quả đã không những gây tai tiếng cho công tác đào

tạo mà còn góp phần tạo ra một bộ phận viên chức yếu

kém về kiến thức, tay nghề hoặc không được đào tạo đúng

chuyên môn công tác, hoặc không được làm việc đúng

chuyên môn được học và làm việc không hiệu quả, không

tạo ra đột phá về sản phẩm lao động cho xã hội. Trước tình

hình đó, các trường đại học thành viên rất cần có những

chương trình và cách thức đào tạo bài bản để SV của họ ra

trường có thể sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp và làm việc

ngay tại các công sở trên cả nước.

Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế trang 1

Trang 1

Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế trang 2

Trang 2

Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế trang 3

Trang 3

Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế trang 4

Trang 4

Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế trang 5

Trang 5

Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 880
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế

Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế
ăng tiếng Anh cơ bản của các đơn vị 
Cơ quan 
đơn vị 
Nghe Nói Đọc Viết 
Biên 
dịch 
Phiên 
dịch 
Bưu điện 7 9 3 2 0 0 
Khách sạn 9 9 5 4 0 2 
Công ty, 
dịch vụ 
du lịch 
4 6 7 8 2 1 
Ngân hàng 5 5 5 4 1 0 
Cơ quan 
ngoại giao 
6 7 8 8 9 8 
Cơ sở đào 
tạo, giáo dục 
3 4 9 9 1 1 
Cơ quan 
nghiên cứu 
9 7 8 6 7 2 
Đơn vị 
hành chính 
6 6 8 7 5 3 
Dự án 
nước ngoài 
4 5 3 3 5 4 
Cảng 
hàng không 
9 9 3 2 0 0 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 
262 
Rõ ràng yếu tố nước ngoài và mức độ nhu cầu giao 
tiếp của mỗi đơn vị có ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ 
thường xuyên sử dụng các kĩ năng tiếng Anh của cán bộ 
công chức. Những công sở có nhiều giao dịch với khách 
hàng là người nước ngoài, dự án nước ngoài, đối tác nước 
ngoài... thì mức độ sử dụng các kĩ năng như nghe - nói là 
rất thường xuyên (khách sạn, nhà hàng, dịch vụ hàng 
không, dự án nước ngoài, cơ quan ngoại giao...). Những 
công sở thiên về hành chính, nghiên cứu, cơ sở đào tạo, 
hợp tác quốc tế, dịch vụ du lịch khác... lại có xu hướng 
sử dụng nhiều hơn các kĩ năng đọc - viết. Phiên dịch và 
biên dịch là kĩ năng có mức độ sử dụng không thường 
xuyên và cũng không giống nhau giữa các đơn vị. Nổi 
trội nhất về mức độ thường xuyên phiên, biên dịch được 
tìm thấy các cơ quan ngoại giao hoặc bộ phận hợp tác 
quốc tế của các đơn vị. 
2.3.3. Nhu cầu sử dụng tiếng Anh chuyên ngành để làm 
việc tại các công sở 
Tìm hiểu về thực tế sử dụng các kĩ năng tiếng Anh 
chuyên sâu trong những tình huống làm việc tại các công 
sở trong các lĩnh vực khác nhau, bản thân các cán bộ 
công chức và cấp quản lí trực tiếp của họ (xem bảng 3). 
Bảng 3. Mức độ thường xuyên sử dụng các kĩ năng 
chuyên sâu của tiếng Anh trong những tình huống làm việc 
Thực tế và nhu cầu sử dụng TACN 
để làm việc hàng ngày 
Số 
lượng 
(N=150) 
Tỉ lệ 
(%) 
Nghe bản tin trên đài, bài báo cáo, 
bài trình bày... bằng tiếng Anh 
45 30,0 
Nghe và nói chuyện, trao đổi công 
việc chuyên môn với bạn đồng 
nghiệp người nước ngoài 
78 52,0 
Giao tiếp (nghe-nói) với khách 
hàng, đối tác ... là người nước ngoài 
68 45,33 
Gọi điện và trả lời điện thoại trao 
đổi chuyên môn bằng tiếng Anh 
61 40,66 
Thuyết trình các bài báo cáo, số 
liệu, kết quả nghiên cứu 
57 38,0 
Trao đổi, bàn bạc, thương 
thuyết... hợp đồng, thanh toán quốc 
tế 
34 22,66 
Đọc tài liệu bằng tiếng Anh phục vụ 
công việc chuyên môn 
97 64,66 
Đọc thông tin bằng tiếng Anh trên 
Internet để phục vụ công việc 
83 55,33 
Đọc báo cáo, hợp đồng, thư tín, văn 
bản khác... bằng tiếng Anh 
70 46,66 
Viết báo cáo, thảo hợp đồng, viết 
thư tín, viết email... 
71 47,33 
Biên dịch tài liệu Anh - Việt và 
Việt - Anh (hợp đồng, báo cáo, thư 
tín...) thuộc lĩnh vực chuyên môn 
62 41,33 
Phiên dịch hội thảo, hội nghị... 
chuyên môn của cơ quan đơn vị 
10 6,66 
Phiên dịch cho khách của cơ quan 
trong những cuộc họp chuyên môn 
23 15,33 
Phiên dịch cho lãnh đạo cơ quan đi 
công tác nước ngoài, làm việc với 
khách nước ngoài về công tác 
chuyên môn 
13 8,66 
Thực tế sử dụng các tiểu kĩ năng (sub-skills) của tiếng 
Anh trong những tình huống làm việc của các cán bộ công 
chức trong bảng 3 nói lên một thực trạng rằng tuy mức độ 
thường xuyên sử dụng mỗi tiểu kĩ năng không cao (xấp xỉ 
50-60%), nhưng mặt bằng chung giữa các kĩ năng là khá 
đồng đều. Ngoại trừ những kĩ năng thuộc về nhóm phiên 
- biên dịch với nhu cầu sử dụng khá khiêm tốn (ít hơn 
20%), các kĩ năng còn lại đều đạt từ khoảng 40-60%. 
2.4. Một số đề xuất và kiến nghị 
Từ việc tìm nhu cầu người học tại các công sở trên 
địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế để làm hàm ý cho việc 
biên soạn chương trình, giáo trình, xây dựng phương 
pháp tổ chức lớp học tiếng Anh cơ bản và chuyên ngành 
tại Đại học Huế, chúng tôi xin được có một số đề xuất 
như sau: 
2.4.1. Biên soạn chương trình và giáo trình 
Để đạt được những kết quả rõ nét trong công tác đào 
tạo tiếng Anh cho người lao động có thể sử dụng được 
trong công việc, những chuyên gia biên soạn chương 
trình và giáo trình cần chú ý hơn nữa yếu tố nhu cầu thực 
tế của người học và yếu tố vận dụng tài liệu dạy học cũng 
như những chủ điểm, khối kiến thức và kĩ năng phù hợp 
với đối tượng người học. Thời lượng phân bổ cũng cần 
được tổ chức hợp lí và khoa học hơn. Chương trình và 
giáo trình được biên soạn có tính đến yếu tố nhu cầu 
người học sẽ tránh làm cho người học hụt hẫng, nhàm 
chán vì phải luyện tập tiếng Anh hoặc TACN trong 
những môi trường “khô cứng”, tình huống xa lạ với thực 
tế công việc, không có tính “thực” (authentic). Dựa trên 
những kết quả nghiên cứu của đề tài về nhu cầu người 
học và cũng chính là nhu cầu thực sự của họ khi làm việc, 
chương trình và giáo trình cần thiết phải có sự cân đối 
giữa các khối kiến thức và kĩ năng như đã tìm hiểu về 
nhu cầu, nếu áp dụng cho đối tượng đào tạo tại tỉnh Thừa 
Thiên Huế hoặc một số khu vực lân cận. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 
263 
2.4.2. Thực nghiệm và triển khai chương trình 
Dựa trên các kết quả điều tra về nhu cầu người học đối 
với cách thức tổ chức lớp học, các khoá học phải được tổ 
chức phù hợp với điều kiện khách quan, điều kiện người 
học, khả năng nắm bắt, điều kiện thời gian và không gian, 
nhu cầu thực tế của từng nhóm người học... Cụ thể, khóa 
học tiếng Anh và TACN sẽ đạt được những kết quả như 
mong đợi nếu các lớp học đều được khảo sát đầu vào để 
phân lớp theo tình hình thực tế hoặc theo nhóm cùng nguyện 
vọng và điều kiện. Các khóa học tiếng Anh và TACN còn 
có thể thành công hơn khi trong chương trình tổ chức cho 
học viên những cơ hội luyện tập sát với thực tế công việc, 
những dịp tham quan học tập tại các công sở có chuyên môn 
tương tự với nhu cầu công việc định hướng của học viên 
(công ty nước ngoài hoặc liên doanh nước ngoài; hoặc đơn 
giản chỉ là những tình huống mô phỏng với dụng ý luyện 
tập tiếng Anh trong môi trường làm việc thật). 
2.4.3. Tiếp cận tài liệu dạy học hiện đại 
Trong các yếu tố liên quan đến một khoá học TACN, 
tài liệu dạy học được xem là một nhân tố quan trọng góp 
phần vào thành công của khóa học. Nhiều bộ sách dạy 
tiếng Anh giao tiếp và phát triển kĩ năng đã được nhập 
khẩu của các nhà xuất bản có tiếng trên thế giới như 
Oxford, Longman, Cambridge. Nhưng tài liệu giảng dạy 
TACN thì chưa được quan tâm đúng mức. Giáo trình 
giảng dạy tiếng Anh cho người làm việc tại công sở hiện 
nay vẫn là những bộ sách đã được xuất bản cách đây khá 
lâu nên ngôn ngữ và hoạt động phát triển kĩ năng chưa có 
nhiều cải tiến cho phù hợp với môi trường học tập mới. 
Riêng đối với tài liệu giảng dạy TACN cho các đối tượng 
sinh viên của các ngành khoa học khác (không phải ngôn 
ngữ) thì chỉ mới dừng lại ở một số giáo trình tiếng Anh 
thương mại của nước ngoài và đa số là của các hội đồng 
khoa học hoặc giáo viên các trường tự soạn. Nội dung các 
bài học chủ yếu là để giúp học viên tiếp thu một khối lượng 
từ vựng học thuật chuyên ngành khá lớn và hoạt động phát 
triển kĩ năng thì rất sơ sài, đôi khi chỉ thiên về dịch thuật 
hoặc bài tập củng cố từ vựng. Từ thực tế này và từ những 
kiến nghị của chính người học, cần phải có một chiến lược 
tiếp cận tài liệu dạy học hiện đại để học viên có thể rèn 
luyện kĩ năng và tiếp thu kiến thức TACN phù hợp với 
ngành nghề một cách khoa học. Hiện nay các nhà xuất bản 
có tiếng như Oxford, Cambridge hay Longman, 
McGrawHill đã cho xuất bản hàng loạt bộ sách mới để 
giảng dạy môn tiếng Anh thương mại, tiếng Anh công sở, 
tiếng Anh dành cho người bán hàng (hoặc tiếng Anh thư 
kí, tiếng Anh trình bày, tiếng Anh thương lượng, tiếng Anh 
hướng dẫn du lịch...). Đây là những loại sách được biên 
soạn theo phong cách giao tiếp với nhiều hoạt động đề 
nghị và khối kiến thức phong phú, mục đích rèn luyện kĩ 
năng toàn diện và tình huống gần với thực tế. 
2.4.4. Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên 
Để giảng dạy tiếng Anh hiệu quả cho đối tượng cán 
bộ công chức, cần phải có chế độ đào tạo giáo viên bài 
bản và bồi dưỡng giáo viên thường xuyên. Theo đó, các 
khoá bồi dưỡng giáo viên phải được tổ chức thích hợp về 
thời gian, trình độ và điều kiện tham gia. Chương trình 
đào tạo và bồi dưỡng giáo viên phải có những thay đổi 
về phương pháp tiếp cận hoạt động dạy học, người học 
và tài liệu hiện đại. Phải làm cho giáo viên nhận thức 
được tầm quan trọng của việc tiếp cận người học và cách 
thức hướng hoạt động học thành hoạt động nhắm vào 
người học, phục vụ người học, phát huy tính chủ động tự 
học của người học. 
2.4.5. Thay đổi thói quen, nhận thức của sinh viên về việc 
học để đáp ứng nhu cầu xã hội 
Từ trước đến nay, học sinh, sinh viên và cả những 
học viên đã đi làm khi được học tiếng Anh đều có thể nêu 
những lí do khác nhau, nhưng ít người xác định rõ mình 
học vì cái gì, để làm việc gì sau khi kết thúc khóa học. Lí 
do có thể khách quan hoặc chủ quan nhưng đã có rất 
nhiều sinh viên, học viên nêu những lí do rất chung rằng 
họ học vì mọi người xung quanh đã học; hoặc họ không 
muốn mình thua kém... Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra 
rằng nếu thay đổi được nhận thức và thói quen của sinh 
viên, học viên về việc xác định mục tiêu học tiêu của việc 
học tiếng Anh và TACN là để phục vụ công việc, để đáp 
ứng nhu cầu xã hội... thì kết quả đào tạo sẽ có nhiều khác 
biệt. Động cơ học tập rõ ràng và kế hoạch học tập chi tiết, 
phù hợp sẽ giúp học viên tiết kiệm thời gian, tăng tính 
hiệu quả và trở nên yêu thích việc học hoặc nhận thấy 
việc học có ý nghĩa và cần phấn đấu. 
3. Kết luận 
Việc có hay không một lộ trình đào tạo tiếng Anh 
theo hướng chú trọng vào người học, đáp ứng nhu cầu 
của người học không phải là đơn giản, nhưng lại là một 
việc rất nên làm, và nên làm càng sớm càng tốt. Khi chưa 
có sự phân tích kĩ càng và toàn diện nhu cầu thực sự của 
người làm việc, thì khó lòng tạo ra một chương trình hoặc 
giáo trình tốt hoặc tổ chức lớp học hay và đạt hiệu quả 
tối ưu. Khi mà toàn xã hội đang tích cực xây dựng những 
mô hình kinh tế, giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe... 
hướng đến nhu cầu của con người, phục vụ chính cái mà 
con người cần thì việc tổ chức đào tạo tiếng Anh cơ bản 
và chuyên ngành theo nhu cầu xã hội như đã đề cập sẽ 
giúp tiết kiệm được nhiều tiền của và công sức của các 
đơn vị đào tạo, và đồng thời tạo ra cho xã hội nguồn nhân 
lực có trình độ chuyên môn cao, ngoại ngữ thành thạo để 
bắt kịp với xu hướng hiện đại hóa, toàn cầu hóa hiện nay. 
(Xem tiếp trang 258) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 254-258 
258 
các yếu tố văn hoá giáo dục, kết hợp hài hoà giữa phương 
Đông và phương Tây để hạn chế những “rào cản” cho 
việc áp dụng cộng đồng học tập [8]. Vì đặc thù các 
trường hiện đang đào tạo ngành Quản lí công ở nhiều 
tỉnh, thành trong cả nước nên cộng đồng học tập của SV 
này cũng phải được lựa chọn những hình thức, cách thức 
tổ chức cho phù hợp, hiệu quả nhằm thu hút được số 
đông SV tham gia. Mức độ đa dạng của cộng đồng sẽ 
càng giúp nâng cao hiệu quả của việc đào tạo ngành này 
nói chung và việc dạy học các học phần chuyên ngành 
bằng tiếng Anh nói riêng. 
3. Kết luận 
Tổ chức giảng dạy học phần chuyên ngành Quản lí 
công bằng tiếng Anh là một hướng đi đúng đắn, phù hợp 
với xu thế và đòi hỏi thực tiễn hiện nay. Điều này đòi hỏi 
các cơ sở đào tạo vừa phải tháo gỡ những bất cập chung 
thường gặp vừa phải có kế hoạch triển khai với một 
ngành mang tính đặc thù. Các trường đại học không chỉ 
nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín của mình mà còn đem 
lại nhiều lợi ích cho cả GV và SV. Một số giải pháp được 
đề xuất trong bài viết này có thể là sự tham khảo cho các 
cơ sở đào tạo trong việc khắc phục những bất cập để có 
thể thực hiện có hiệu quả việc giảng dạy các học phần 
chuyên ngành bằng tiếng Anh trong đào tạo cử nhân 
Quản lí công nhằm góp phần đào tạo nhân lực chất lượng 
cao ngành này ở Việt Nam. 
Tài liệu tham khảo 
[1] European Commission (2010). European Language 
Policy and CLIL: A Selection of EU funded Projects. 
[2] Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 
2080/QĐ-TTg ngày 22/12/2017 về phê duyệt điều 
chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ 
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. 
[3] Quốc hội (2018). Luật số 34/2018/QH14 ngày 
19/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật 
Giáo dục đại học. 
[4] Tar I. - Varga K. C. - Wiwczaroski T. B. (2009). 
Imrpoving ESP Teaching through Collaboration: 
The Situation in Hungary. ESP World, Issue 1 (22), 
Vol. 8, pp. 46-51. 
[5] Zohreh Molaee - Fariborz Dortaj (2015). Improving 
L2 Learning: An ARCS Instructional-motivational 
Approach. Procedia - Social and Behavioral 
Sciences, Vol. 171, pp. 1214-1222. 
[6] Trần Thị Thanh Thủy - Hà Hồng Nga (2015). Thực 
trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội: Thách thức và giải pháp. 
Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
(Khoa học xã hội), số 60 (6), tr 124-130. 
[7] Nguyễn Thị Thanh Vân (2014). Nâng cao vốn từ 
vựng tiếng Anh chuyên ngành qua hoạt động cá 
nhân. Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11 (229), tr 
47-50. 
[8] Nguyễn Thị Mai Hương - Nguyễn Thị Mộc Lan 
(2017). Xây dựng cộng đồng học tập tiếng Anh: 
Những vấn đề cần suy nghĩ khi lựa chọn mô hình 
học tập của phương Tây. Tạp chí Khoa học, Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa học xã hội), số 62 
(11), tr 126-133. 
NGHIÊN CỨU NHU CẦU HỌC TIẾNG ANH... 
(Tiếp theo trang 263) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bouzidi H. (2009). Between the ESP Classroom and 
the Workplace: Bridging the Gap. English Teaching 
Forum, No. 3. 
[2] Canale, M. and Swain, M. (1980). Theoretical bases 
of communicative approaches to second language 
teaching and testing. Applied Linguistics 1, 
pp. 1-47. 
[3] Hutchinson, T. and A. Water (1987). English for 
Specific Purposes: A Learning centred Approach. 
Cambridge: CUP. 
[4] Lawson, K. H. (1979). Philosophical Concepts and 
Values in Adult Education. Milton: Open 
University. 
[5] Luka, I. (2009). Development of Students’ English 
for Specific Purposes. Competence in Tourism 
Studies at tertiary Level. English for Specific 
Purposes World, Issue 4 (25), Vol. 8, Online Journal 
for Teachers at  retrieved on 12 
March 2010. 
[6] Savas, B. (2009). Role of Functional Academic 
Literacy in ESP teaching: ESP Teacher Training in 
Turkey for Sustainable Development. The Journal of 
International Social Research, Vol. 2/9. 
[7] Widdowson, H. G. (1978). Teaching Language as 
Communication. London: OUP. 
[8] Widdowson, H.G. (1981). English for Specific 
Purposes: Criteria for Course Design in English for 
Academic and Technological Purposes. Eds. L. 
Selinker, E. Tarone, and V. Hanzeli Rowley. Mass; 
Newburry. 
[9] Zhang, Zuocheng (2007). Towards an Integrated 
Approach to Teaching Business English: A Chinese 
Experience. English for Specific Purposes, Vol. 26, 
No. 4, pp. 399-410. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_nhu_cau_hoc_tieng_anh_cua_cac_can_bo_cong_so_vien.pdf