Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế
Sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã đem
đến cho con người những đổi thay có tính đột phá trên
nhiều lĩnh vực. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, khả
năng hòa nhập được mở rộng và nhu cầu của con người
cũng không ngừng biến đổi về lượng lẫn về chất. Trong
giao tiếp, giáo dục, ứng dụng khoa học kĩ thuật hay cả
trong nghệ thuật, nhiều người trên thế giới đã chọn học
tiếng Anh để làm phương tiện mở cánh cổng tri thức, và
điều đó đã làm cho công tác dạy và học tiếng Anh trên toàn
thế giới trở thành một mối quan tâm lớn. Các nhà khoa
học, ngôn ngữ học và cả những người thực hành giảng dạy
đều mong muốn nghiên cứu tìm ra cách tiếp cận ngôn ngữ
này với những quan điểm hiện đại, để vừa hiểu được bản
chất vấn đề vừa khai thác những phương pháp tích cực
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Trong xu hướng chung
về đào tạo tiếng Anh như một ngoại ngữ (Teaching
English as a Foreign Language - TEFL), đã có nhiều
nghiên cứu đề cập việc dạy và học tiếng Anh chuyên
ngành (TACN) (English for Specific Purposes - ESP)
cùng những thách thức về chương trình, giáo trình,
phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập loại hình
tiếng Anh có tính chuyên biệt này. Xét về lí thuyết, việc
đào tạo phải đạt được mục tiêu quy mô lớn về số lượng và
đạt chuẩn về chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu của một
đối tượng đào tạo đông đảo trong xã hội, và nhằm tạo ra
những sản phẩm đào tạo có chất lượng thật sự - có nghĩa
là người học phải dùng được tiếng Anh giao tiếp và
chuyên ngành trong công việc của họ sau khi tốt nghiệp.
Tuy nhiên, thực tế đào tạo TACN trong thời gian qua bộc
lộ những khó khăn và hạn chế về nhiều mặt; dẫn đến việc
nhiều cơ sở đào tạo không đạt được những mục tiêu mong
muốn cũng như lãng phí về mặt tài chính khi đầu tư cho
công tác này. Đứng trước những thách thức của toàn cầu
hoá và nền kinh tế thị trường, việc đào tạo chất lượng kém
và sản phẩm là những con người không thể sử dụng kiến
thức và tay nghề đã được đào tạo để làm việc và làm việc
hiệu quả đã không những gây tai tiếng cho công tác đào
tạo mà còn góp phần tạo ra một bộ phận viên chức yếu
kém về kiến thức, tay nghề hoặc không được đào tạo đúng
chuyên môn công tác, hoặc không được làm việc đúng
chuyên môn được học và làm việc không hiệu quả, không
tạo ra đột phá về sản phẩm lao động cho xã hội. Trước tình
hình đó, các trường đại học thành viên rất cần có những
chương trình và cách thức đào tạo bài bản để SV của họ ra
trường có thể sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp và làm việc
ngay tại các công sở trên cả nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế
ăng tiếng Anh cơ bản của các đơn vị Cơ quan đơn vị Nghe Nói Đọc Viết Biên dịch Phiên dịch Bưu điện 7 9 3 2 0 0 Khách sạn 9 9 5 4 0 2 Công ty, dịch vụ du lịch 4 6 7 8 2 1 Ngân hàng 5 5 5 4 1 0 Cơ quan ngoại giao 6 7 8 8 9 8 Cơ sở đào tạo, giáo dục 3 4 9 9 1 1 Cơ quan nghiên cứu 9 7 8 6 7 2 Đơn vị hành chính 6 6 8 7 5 3 Dự án nước ngoài 4 5 3 3 5 4 Cảng hàng không 9 9 3 2 0 0 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 262 Rõ ràng yếu tố nước ngoài và mức độ nhu cầu giao tiếp của mỗi đơn vị có ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ thường xuyên sử dụng các kĩ năng tiếng Anh của cán bộ công chức. Những công sở có nhiều giao dịch với khách hàng là người nước ngoài, dự án nước ngoài, đối tác nước ngoài... thì mức độ sử dụng các kĩ năng như nghe - nói là rất thường xuyên (khách sạn, nhà hàng, dịch vụ hàng không, dự án nước ngoài, cơ quan ngoại giao...). Những công sở thiên về hành chính, nghiên cứu, cơ sở đào tạo, hợp tác quốc tế, dịch vụ du lịch khác... lại có xu hướng sử dụng nhiều hơn các kĩ năng đọc - viết. Phiên dịch và biên dịch là kĩ năng có mức độ sử dụng không thường xuyên và cũng không giống nhau giữa các đơn vị. Nổi trội nhất về mức độ thường xuyên phiên, biên dịch được tìm thấy các cơ quan ngoại giao hoặc bộ phận hợp tác quốc tế của các đơn vị. 2.3.3. Nhu cầu sử dụng tiếng Anh chuyên ngành để làm việc tại các công sở Tìm hiểu về thực tế sử dụng các kĩ năng tiếng Anh chuyên sâu trong những tình huống làm việc tại các công sở trong các lĩnh vực khác nhau, bản thân các cán bộ công chức và cấp quản lí trực tiếp của họ (xem bảng 3). Bảng 3. Mức độ thường xuyên sử dụng các kĩ năng chuyên sâu của tiếng Anh trong những tình huống làm việc Thực tế và nhu cầu sử dụng TACN để làm việc hàng ngày Số lượng (N=150) Tỉ lệ (%) Nghe bản tin trên đài, bài báo cáo, bài trình bày... bằng tiếng Anh 45 30,0 Nghe và nói chuyện, trao đổi công việc chuyên môn với bạn đồng nghiệp người nước ngoài 78 52,0 Giao tiếp (nghe-nói) với khách hàng, đối tác ... là người nước ngoài 68 45,33 Gọi điện và trả lời điện thoại trao đổi chuyên môn bằng tiếng Anh 61 40,66 Thuyết trình các bài báo cáo, số liệu, kết quả nghiên cứu 57 38,0 Trao đổi, bàn bạc, thương thuyết... hợp đồng, thanh toán quốc tế 34 22,66 Đọc tài liệu bằng tiếng Anh phục vụ công việc chuyên môn 97 64,66 Đọc thông tin bằng tiếng Anh trên Internet để phục vụ công việc 83 55,33 Đọc báo cáo, hợp đồng, thư tín, văn bản khác... bằng tiếng Anh 70 46,66 Viết báo cáo, thảo hợp đồng, viết thư tín, viết email... 71 47,33 Biên dịch tài liệu Anh - Việt và Việt - Anh (hợp đồng, báo cáo, thư tín...) thuộc lĩnh vực chuyên môn 62 41,33 Phiên dịch hội thảo, hội nghị... chuyên môn của cơ quan đơn vị 10 6,66 Phiên dịch cho khách của cơ quan trong những cuộc họp chuyên môn 23 15,33 Phiên dịch cho lãnh đạo cơ quan đi công tác nước ngoài, làm việc với khách nước ngoài về công tác chuyên môn 13 8,66 Thực tế sử dụng các tiểu kĩ năng (sub-skills) của tiếng Anh trong những tình huống làm việc của các cán bộ công chức trong bảng 3 nói lên một thực trạng rằng tuy mức độ thường xuyên sử dụng mỗi tiểu kĩ năng không cao (xấp xỉ 50-60%), nhưng mặt bằng chung giữa các kĩ năng là khá đồng đều. Ngoại trừ những kĩ năng thuộc về nhóm phiên - biên dịch với nhu cầu sử dụng khá khiêm tốn (ít hơn 20%), các kĩ năng còn lại đều đạt từ khoảng 40-60%. 2.4. Một số đề xuất và kiến nghị Từ việc tìm nhu cầu người học tại các công sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế để làm hàm ý cho việc biên soạn chương trình, giáo trình, xây dựng phương pháp tổ chức lớp học tiếng Anh cơ bản và chuyên ngành tại Đại học Huế, chúng tôi xin được có một số đề xuất như sau: 2.4.1. Biên soạn chương trình và giáo trình Để đạt được những kết quả rõ nét trong công tác đào tạo tiếng Anh cho người lao động có thể sử dụng được trong công việc, những chuyên gia biên soạn chương trình và giáo trình cần chú ý hơn nữa yếu tố nhu cầu thực tế của người học và yếu tố vận dụng tài liệu dạy học cũng như những chủ điểm, khối kiến thức và kĩ năng phù hợp với đối tượng người học. Thời lượng phân bổ cũng cần được tổ chức hợp lí và khoa học hơn. Chương trình và giáo trình được biên soạn có tính đến yếu tố nhu cầu người học sẽ tránh làm cho người học hụt hẫng, nhàm chán vì phải luyện tập tiếng Anh hoặc TACN trong những môi trường “khô cứng”, tình huống xa lạ với thực tế công việc, không có tính “thực” (authentic). Dựa trên những kết quả nghiên cứu của đề tài về nhu cầu người học và cũng chính là nhu cầu thực sự của họ khi làm việc, chương trình và giáo trình cần thiết phải có sự cân đối giữa các khối kiến thức và kĩ năng như đã tìm hiểu về nhu cầu, nếu áp dụng cho đối tượng đào tạo tại tỉnh Thừa Thiên Huế hoặc một số khu vực lân cận. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 263 2.4.2. Thực nghiệm và triển khai chương trình Dựa trên các kết quả điều tra về nhu cầu người học đối với cách thức tổ chức lớp học, các khoá học phải được tổ chức phù hợp với điều kiện khách quan, điều kiện người học, khả năng nắm bắt, điều kiện thời gian và không gian, nhu cầu thực tế của từng nhóm người học... Cụ thể, khóa học tiếng Anh và TACN sẽ đạt được những kết quả như mong đợi nếu các lớp học đều được khảo sát đầu vào để phân lớp theo tình hình thực tế hoặc theo nhóm cùng nguyện vọng và điều kiện. Các khóa học tiếng Anh và TACN còn có thể thành công hơn khi trong chương trình tổ chức cho học viên những cơ hội luyện tập sát với thực tế công việc, những dịp tham quan học tập tại các công sở có chuyên môn tương tự với nhu cầu công việc định hướng của học viên (công ty nước ngoài hoặc liên doanh nước ngoài; hoặc đơn giản chỉ là những tình huống mô phỏng với dụng ý luyện tập tiếng Anh trong môi trường làm việc thật). 2.4.3. Tiếp cận tài liệu dạy học hiện đại Trong các yếu tố liên quan đến một khoá học TACN, tài liệu dạy học được xem là một nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của khóa học. Nhiều bộ sách dạy tiếng Anh giao tiếp và phát triển kĩ năng đã được nhập khẩu của các nhà xuất bản có tiếng trên thế giới như Oxford, Longman, Cambridge. Nhưng tài liệu giảng dạy TACN thì chưa được quan tâm đúng mức. Giáo trình giảng dạy tiếng Anh cho người làm việc tại công sở hiện nay vẫn là những bộ sách đã được xuất bản cách đây khá lâu nên ngôn ngữ và hoạt động phát triển kĩ năng chưa có nhiều cải tiến cho phù hợp với môi trường học tập mới. Riêng đối với tài liệu giảng dạy TACN cho các đối tượng sinh viên của các ngành khoa học khác (không phải ngôn ngữ) thì chỉ mới dừng lại ở một số giáo trình tiếng Anh thương mại của nước ngoài và đa số là của các hội đồng khoa học hoặc giáo viên các trường tự soạn. Nội dung các bài học chủ yếu là để giúp học viên tiếp thu một khối lượng từ vựng học thuật chuyên ngành khá lớn và hoạt động phát triển kĩ năng thì rất sơ sài, đôi khi chỉ thiên về dịch thuật hoặc bài tập củng cố từ vựng. Từ thực tế này và từ những kiến nghị của chính người học, cần phải có một chiến lược tiếp cận tài liệu dạy học hiện đại để học viên có thể rèn luyện kĩ năng và tiếp thu kiến thức TACN phù hợp với ngành nghề một cách khoa học. Hiện nay các nhà xuất bản có tiếng như Oxford, Cambridge hay Longman, McGrawHill đã cho xuất bản hàng loạt bộ sách mới để giảng dạy môn tiếng Anh thương mại, tiếng Anh công sở, tiếng Anh dành cho người bán hàng (hoặc tiếng Anh thư kí, tiếng Anh trình bày, tiếng Anh thương lượng, tiếng Anh hướng dẫn du lịch...). Đây là những loại sách được biên soạn theo phong cách giao tiếp với nhiều hoạt động đề nghị và khối kiến thức phong phú, mục đích rèn luyện kĩ năng toàn diện và tình huống gần với thực tế. 2.4.4. Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên Để giảng dạy tiếng Anh hiệu quả cho đối tượng cán bộ công chức, cần phải có chế độ đào tạo giáo viên bài bản và bồi dưỡng giáo viên thường xuyên. Theo đó, các khoá bồi dưỡng giáo viên phải được tổ chức thích hợp về thời gian, trình độ và điều kiện tham gia. Chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên phải có những thay đổi về phương pháp tiếp cận hoạt động dạy học, người học và tài liệu hiện đại. Phải làm cho giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc tiếp cận người học và cách thức hướng hoạt động học thành hoạt động nhắm vào người học, phục vụ người học, phát huy tính chủ động tự học của người học. 2.4.5. Thay đổi thói quen, nhận thức của sinh viên về việc học để đáp ứng nhu cầu xã hội Từ trước đến nay, học sinh, sinh viên và cả những học viên đã đi làm khi được học tiếng Anh đều có thể nêu những lí do khác nhau, nhưng ít người xác định rõ mình học vì cái gì, để làm việc gì sau khi kết thúc khóa học. Lí do có thể khách quan hoặc chủ quan nhưng đã có rất nhiều sinh viên, học viên nêu những lí do rất chung rằng họ học vì mọi người xung quanh đã học; hoặc họ không muốn mình thua kém... Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu thay đổi được nhận thức và thói quen của sinh viên, học viên về việc xác định mục tiêu học tiêu của việc học tiếng Anh và TACN là để phục vụ công việc, để đáp ứng nhu cầu xã hội... thì kết quả đào tạo sẽ có nhiều khác biệt. Động cơ học tập rõ ràng và kế hoạch học tập chi tiết, phù hợp sẽ giúp học viên tiết kiệm thời gian, tăng tính hiệu quả và trở nên yêu thích việc học hoặc nhận thấy việc học có ý nghĩa và cần phấn đấu. 3. Kết luận Việc có hay không một lộ trình đào tạo tiếng Anh theo hướng chú trọng vào người học, đáp ứng nhu cầu của người học không phải là đơn giản, nhưng lại là một việc rất nên làm, và nên làm càng sớm càng tốt. Khi chưa có sự phân tích kĩ càng và toàn diện nhu cầu thực sự của người làm việc, thì khó lòng tạo ra một chương trình hoặc giáo trình tốt hoặc tổ chức lớp học hay và đạt hiệu quả tối ưu. Khi mà toàn xã hội đang tích cực xây dựng những mô hình kinh tế, giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe... hướng đến nhu cầu của con người, phục vụ chính cái mà con người cần thì việc tổ chức đào tạo tiếng Anh cơ bản và chuyên ngành theo nhu cầu xã hội như đã đề cập sẽ giúp tiết kiệm được nhiều tiền của và công sức của các đơn vị đào tạo, và đồng thời tạo ra cho xã hội nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, ngoại ngữ thành thạo để bắt kịp với xu hướng hiện đại hóa, toàn cầu hóa hiện nay. (Xem tiếp trang 258) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 254-258 258 các yếu tố văn hoá giáo dục, kết hợp hài hoà giữa phương Đông và phương Tây để hạn chế những “rào cản” cho việc áp dụng cộng đồng học tập [8]. Vì đặc thù các trường hiện đang đào tạo ngành Quản lí công ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước nên cộng đồng học tập của SV này cũng phải được lựa chọn những hình thức, cách thức tổ chức cho phù hợp, hiệu quả nhằm thu hút được số đông SV tham gia. Mức độ đa dạng của cộng đồng sẽ càng giúp nâng cao hiệu quả của việc đào tạo ngành này nói chung và việc dạy học các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh nói riêng. 3. Kết luận Tổ chức giảng dạy học phần chuyên ngành Quản lí công bằng tiếng Anh là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế và đòi hỏi thực tiễn hiện nay. Điều này đòi hỏi các cơ sở đào tạo vừa phải tháo gỡ những bất cập chung thường gặp vừa phải có kế hoạch triển khai với một ngành mang tính đặc thù. Các trường đại học không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín của mình mà còn đem lại nhiều lợi ích cho cả GV và SV. Một số giải pháp được đề xuất trong bài viết này có thể là sự tham khảo cho các cơ sở đào tạo trong việc khắc phục những bất cập để có thể thực hiện có hiệu quả việc giảng dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh trong đào tạo cử nhân Quản lí công nhằm góp phần đào tạo nhân lực chất lượng cao ngành này ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo [1] European Commission (2010). European Language Policy and CLIL: A Selection of EU funded Projects. [2] Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 2080/QĐ-TTg ngày 22/12/2017 về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. [3] Quốc hội (2018). Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. [4] Tar I. - Varga K. C. - Wiwczaroski T. B. (2009). Imrpoving ESP Teaching through Collaboration: The Situation in Hungary. ESP World, Issue 1 (22), Vol. 8, pp. 46-51. [5] Zohreh Molaee - Fariborz Dortaj (2015). Improving L2 Learning: An ARCS Instructional-motivational Approach. Procedia - Social and Behavioral Sciences, Vol. 171, pp. 1214-1222. [6] Trần Thị Thanh Thủy - Hà Hồng Nga (2015). Thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Thách thức và giải pháp. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa học xã hội), số 60 (6), tr 124-130. [7] Nguyễn Thị Thanh Vân (2014). Nâng cao vốn từ vựng tiếng Anh chuyên ngành qua hoạt động cá nhân. Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11 (229), tr 47-50. [8] Nguyễn Thị Mai Hương - Nguyễn Thị Mộc Lan (2017). Xây dựng cộng đồng học tập tiếng Anh: Những vấn đề cần suy nghĩ khi lựa chọn mô hình học tập của phương Tây. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa học xã hội), số 62 (11), tr 126-133. NGHIÊN CỨU NHU CẦU HỌC TIẾNG ANH... (Tiếp theo trang 263) Tài liệu tham khảo [1] Bouzidi H. (2009). Between the ESP Classroom and the Workplace: Bridging the Gap. English Teaching Forum, No. 3. [2] Canale, M. and Swain, M. (1980). Theoretical bases of communicative approaches to second language teaching and testing. Applied Linguistics 1, pp. 1-47. [3] Hutchinson, T. and A. Water (1987). English for Specific Purposes: A Learning centred Approach. Cambridge: CUP. [4] Lawson, K. H. (1979). Philosophical Concepts and Values in Adult Education. Milton: Open University. [5] Luka, I. (2009). Development of Students’ English for Specific Purposes. Competence in Tourism Studies at tertiary Level. English for Specific Purposes World, Issue 4 (25), Vol. 8, Online Journal for Teachers at retrieved on 12 March 2010. [6] Savas, B. (2009). Role of Functional Academic Literacy in ESP teaching: ESP Teacher Training in Turkey for Sustainable Development. The Journal of International Social Research, Vol. 2/9. [7] Widdowson, H. G. (1978). Teaching Language as Communication. London: OUP. [8] Widdowson, H.G. (1981). English for Specific Purposes: Criteria for Course Design in English for Academic and Technological Purposes. Eds. L. Selinker, E. Tarone, and V. Hanzeli Rowley. Mass; Newburry. [9] Zhang, Zuocheng (2007). Towards an Integrated Approach to Teaching Business English: A Chinese Experience. English for Specific Purposes, Vol. 26, No. 4, pp. 399-410.
File đính kèm:
- nghien_cuu_nhu_cau_hoc_tieng_anh_cua_cac_can_bo_cong_so_vien.pdf