Nghiên cứu đề xuất giải pháp chống cháy lan truyền cho các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh
Cháy nổ khí mêtan được coi là mối nguy hiểm lớn nhất đối với ngành công nghiệp khai thác than.
Khi một vụ cháy nổ khí mêtan xảy ra nếu không có các biện pháp ngăn chặn sự lan truyền vụ nổ sẽ dẫn
tới hậu quả nghiêm trọng hơn đó là nổ dây chuyền liên tiếp và nổ bụi mỏ. Việc nghiên cứu đưa ra các
biện pháp phòng chống hữu hiệu đám cháy lan truyền trong hệ thống đường lò khi xảy ra sự cố cháy nổ
khí được coi như cấp thiết đối với tất cả các mỏ than hầm lò có nguy cơ tiềm ẩn về cháy nổ khí mêtan.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đề xuất giải pháp chống cháy lan truyền cho các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đề xuất giải pháp chống cháy lan truyền cho các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh
tạo ra từ vụ nổ, về cơ bản không khác nhiều so với nguyên bản. Các hệ thống chống cháy nổ lan truyền sử dụng cảm biến áp lực tĩnh được USBM thiết kế đề ngăn chặn các vụ nổ có tốc độ lan truyền thấp (đến 30,5 m/s), các hệ thống này được kích hoạt điều khiển bằng khóa cảm biến tĩnh áp, khi áp lực tĩnh gia tăng khi vụ nổ xảy ra, khóa tự động mở và xả nước từ thùng chứa xuống đường lò (hình 2). * Hệ thống kiểu Nhật: Hệ thống chống cháy lan truyền sử dụng nước tại Nhật Bản là các túi nhựa dẻo hình máng, gọi là máng linh hoạt. Hệ thống được treo trên móc bằng các khoen trên cả hai mặt dọc của máng hoặc có một hệ thống treo. Tùy thuộc vào hình dạng và tiết diện của đường lò, các túi nước thiết kế có kích thước khác nhau để mỗi túi có thể chứa lượng nước từ 25 ÷ 340 lít (Hình 2c). * Hệ thống kiểu Nga: Tại Nga, ngoài các hệ thống sử dụng bột đá theo kiểu Ba Lan và Đức, các mỏ hầm lò cũng sử dụng hệ thống chống cháy lan truyền máng chứa kiểu Đức, ngoài ra một số mỏ sử dùng các túi nước, trong đó nước được chứa trong các túi sản xuất chuyên dụng được thiết kế đặc biệt để có khả năng vỡ ra và giải phóng nước khi gặp các sóng chấn động (Hình 2d). Tại một số quốc gia khác, hệ thống chống cháy lan truyền bị động cũng được sử dụng tại một số quốc gia khác với các loại tương tự như trên hoặc có sự cải tiến nhỏ: a. Hệ thống máng nước (Đức) KHCNM SỐ 2/2021 * AN TOÀN MỎ THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ 41 - Ba Lan: Sử dụng hệ thống máng nước tương tự như Đức, lượng nước chứa trong máng là 40l. - Pháp: Sử dụng hệ thống máng nước kết hợp giữa kiểu Ba Lan và kiểu Đức. - Vương quốc Anh: Các thùng chứa nước được sử dụng có dung tích 50l và 25l. Khối lượng nước tối thiểu là 22 lb/ft2 (0,93 kg/m2) theo mặt cắt ngang và 40 lb/ft (59,5 kg/m) theo chiều dài giá chứa. - Canada: Mỏ Sparwood (B.C. Coal) và Quinsam sử dụng loại túi treo tương tự như Nhật Bản. Mỏ Prince sử dụng hệ thống máng nước kiểu Đức. 3. Các hệ thống chống cháy nổ lan truyền chủ động Hệ thống chống cháy nổ lan truyền chủ động sẽ sẽ bao gồm ba bộ phận chính: Cảm biến, thiết bị phân phối và vật liệu trơ gây ức chế ngọn lửa. Thiết bị cảm biến sẽ phát hiện vụ nổ dựa trên sự gia tăng áp lực tĩnh, nhiệt độ, bức xạ và gây ra b. Hệ thống sử dụng cảm biến áp lực tĩnh (Mỹ) c. Hệ thống máng nước dẻo (Nhật) d. Hệ thống túi nước (Nga) Hình 2. Một số hệ thống chống cháy nổ lan truyền bị động sử dụng nước 42 KHCNM SỐ 2/2021 * AN TOÀN MỎ THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ một cơ chế kích hoạt thiết bị phân phối. Các thiết bị phân phối vật liệu trơ bằng khí nén, lò xo hoặc vật liệu nổ. 3.1. Các bộ phận của hệ thống chống cháy nổ lan truyền chủ động - Cảm biến: Gồm các loại cảm biến như sau + Cảm biến tia cực tím: Phản ứng với bức xạ tia cực tím phát ra từ ngọn lửa trần; + Cảm biến hồng ngoại: Phản ứng với những thay đổi trong cường độ bức xạ hồng ngoại; + Cảm biến nhiệt ngẫu: Phản ứng với nhiệt được cung cấp từ vụ nổ; + Cảm biến nhiệt cơ: Phản ứng với áp suất động của vụ nổ; + Cảm biến hoạt nổ: Phản ứng với sự gia tăng các yếu tố của vụ nổ tương tự như hệ thống bị động; - Bộ phận phân phối:hầu hết đều sử dụng phương pháp dây nổ hoặc khí nén làm năng lượng phát tán vật liệu trơ. Bộ phận phân phối thường sử dụng một ống thép hoặc nòng súng để nén và đẩy vật liệu trơ ra môi trường. - Vật liệu trơ:cácloại vật liệu trơ đã được thử nghiệm và sử dụng, bao gồm: Halon1301 (Bromotrifluoromethane), nước, bụi đá (VD: đá vôi), natri bicarbonate, ammonium dihydrogen phosphate, kali clorua, kali cacbonat và natri clorua. 3.2. Một số hệ thống chống cháy nổ lan truyền chủ động * Hệ thống chủ động của Bỉ: Bỉ đã phát triển một hệ thống chống cháy lan truyền chủ động rất nhạy, có thể kích hoạt phát tán vật liệu trơ khắp toàn bộ khu vực mỏ, bất kể hướng bùng nổ và vận tốc. Hệ thống bao gồm một cảm biến cơ nhiệt, bộ phận phân phối và chất ức chế là nước.Cảm biến của hệ thống chủ động của Bỉ bao gồm một cảm biến cơ nhiệt, nó sẽ phản ứng với áp lực của vụ nổ, trong trường hợp áp lực quá thấp để kích hoạt hệ thống, các cảm biến sẽ phản ứng với sức nóng của ngọn lửa. Bộ phận cảm biến sẽ bao gồm ba bộ phận (2 hoạt động và 1 dự phòng) kèm theo vỏ thép bảo vệ (rộng 66,5cm, cao 30,5cm, sâu 46,5cm). Cả bộ phận cảm biến và hệ thống đều được cách điện.Các thiết bị phân phối bao gồm một xi lanh của polyurethane bọc trong một ống PVC và được định vị bằng lưới thép. Bộ phận phân phối sử dụng một dây nổ làm phương tiện phát tán. Ống đựng nước (xilanh) có chiều dài 2m, đường kính 22,5cm, trọng lượng khô là 10kg. Tổng lượng nước chứa từ 90 ÷ 100l (Hình 3a). * Hệ thống chủ động của Pháp: Hệ thống chống chảy lan truyền tại Pháp sử dụng một bộ cảm biến tia cực tím và đáy hình tam giác có chứa vật liệu gây ức chế ngọn lửa. Các thiết bị phân phối bao gồm máng kim loại hình tam giác chứa được 25 lít nước. Vật liệu gây ức chế là hốn hợp của kali bicarbonate (10kg) và bụi đá vôi rất mịn, được xử lý đảm bảo chống thấm nước. Hệ thống được vận hành bằng cách cảm nhận bức xạ tia cực tím từ ngọn lửa nhưng không bị ảnh hưởng bởi những nguồn sáng khác trong mỏ hầm lò như đèn an toàn và đèn sợi đốt. Các cảm biến sẽ gửi một xung đến ngòi nổ và phân tán vật liệu trơ. Các ngòi nổ khởi bắn nổ một cầu chì dài 3,6m, chứa 10 gram chất nổ penthrite trên mỗi mét làm phát tán chất trơ vào trong môi trường. * Hệ thống chủ động của Đức: Tại Đức đã nghiên cứu và phát triển hai loại hệ thống chống cháy nổ lan truyền chủ động: - Hệ thống Tremonia: Hệ thống bao gồm một cảm biến nhiệt điện, dây nổ và máng nước chứa 80 lít nước. Cảm biến nhiệt điện phát hiện vụ cháy nổ và gửi một xung đến các dây nổ làm vỡ máng chứa nước. Ưu điểm của hệ thống này là khi cảm biến bị lỗi, hệ thống vẫn làm việc tương tự như một hệ thống chống cháy nổ lan truyền bị động và được kích hoạt nhờ các sóng chấn động của vụ nổ. - Hệ thống BVS(BERGBAU Versuchsstrecke): Hệ thống bao gồm một cảm biến tia cực tím, bộ phận phân phối bằng khí ni tơ nén và vật chất gây ức chế là amoni phốt phát. Cảm biến xác định vụ nổ thông qua ánh sáng phát ra từ vụ nổ, kích hoạt bộ phận phân phối. Một ngòi nổ được kích hoạt, thổi mở van của các thùng chứa, chất gây ức chế ngọn lửa được phát tán bằng khí ni tơ cao áp. Bộ phận phân phối bao gồm một bình xịt có dung tích 12,3 lít chứa amoni phốt phát và khí ni tơ với áp suất là 120 bar. Hai cửa van trên bình xịt được mở ra nhờ ngòi nổ kích hoạt và giải phóng chất gây ức chế. Lượng chất gây ức chế được quy định là 20 kg/m2 tiết diện ngang của đường lò, có thể dập tắt một vụ nổ với tốc độ lên đến 500m/s. * Hệ thống chủ động của Ba Lan: Hệ thống chủ động của Ba Lan sử dụng hai loại cảm biến: Cảm biến nhiệt ngẫu và cảm biến hồng ngoại. Các cảm biến hồng ngoại phản ứng với nhiệt bức xạ. Cảm biến nhiệt ngẫu phản ứng với cả hai sự thay đổi về quang học (ánh sáng) KHCNM SỐ 2/2021 * AN TOÀN MỎ THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ 43 và nhiệt độ. Bộ phận phân phối bao gồm một xi lanh thép chứa bột khô, phát tán bằng khí ni tơ nén. Các xi lanh có khả năng chứa 4 hoặc 8kg bột khô, nén với áp lực 120 atm bằng khí ni tơ. Xi lanh của bộ phân phân phối được kích hoạt theo hai cơ chế: nổ dây bằng một kíp nổ điện hoặc ngòi nổ điện để mở đầu van teflon (van nấm). * Hệ thống chủ động của Anh: Các nhà khoa học Anh đã phát triển một hệ thống chủ động được kích hoạt sử dụng cảm biến nhiệt ngẫu kết hợp với bộ phân tán nước và khí ni tơ nén. Hệ thống này bao gồm hai bộ cảm biến và hai bộ phận phân tán. Các cảm biến nhiệt ngẫu phát hiện vụ cháy – nổ và gửi tín hiệu đến bộ phân tán, nước được phát tán ra môi trường bằng năng lượng từ khí ni tơ nén. Bộ phận phân tán bao gồm một bình dung tích 81 lít chứa khí ni tơ ở áp xuất 7 bar, bình khí ni tơ này được nối với bình chứa 227kg nước ở áp suất khí quyển. * Hệ thống chủ động của Mỹ: USBM (United States Bureau of Mines) đã phát triển hai hệ thống chống cháy lan truyền chủ động. Trong đó, hệ thống Cardox sử dụng một xi lanh áp suất cao để phân tán vật liệu trơ, hệ thống Fenwal sử dụng xi lanh áp suất thấp chứa khí ni tơ hoặc Halon 1301. Cả hai hệ thống đều có hiệu quả cao trong việc dập tắt các vụ nổ bụi than, tuy nhiên hệ thống Cardox có nguy cơ gây nguy hiểm trong quá trình lắp đặt và sử dụng vì áp suất lớn để đẩy các vật liệu trơ trong bộ phận phân tán (Hình 3 b). * Hệ thống chủ động của Ucraina: Hệ thống СЛВА được phát triển bởi Viện Mỏ McNeil. Nguyên lý hoạt động của thiết bị tương tự như hệ thống của Ba Lan và Anh. Thiết bị được kích hoạt phát tán bụi trơ khi cảm biến nhiệt phát hiện nhiệt độ từ vụ nổ (Hình 3c). * Hệ thống chủ động của Nga: Vụ sinh thái, công nghệ và giám sát hạt nhân LB Nga và Viện mỏ Scochinskyi đã phát triển hệ thống chống cháy lan truyền chủ động loại АСВП- ЛВ.1М. Trải qua nhiều thử nghiệm, từ năm 2005 hệ thống này được cấp phép sản xuất và áp dụng trong các mỏ than hầm lò. Hệ thống hoạt động dựa trên nguyên lý cảm biến áp suất không khí, sau khi cảm biến nhận được áp suất của vụ nổ với độ nhạy khoảng ≥ 0,02MPa sẽ kích hoạt mở một bình khí nén có áp suất khoảng 10 ÷14MPa,trong vòng 15 ÷20 mili giây, khí nén sẽ phun một lượng bột đá (khoảng 25kg) tại phía phễu của thiết bị tạo ra một đám mây bụi dài khoảng 30 m, nồng độ bụi khoảng 10g/m3,thời gian tồn tại (lơ lửng trong không gian đường lò) tới 370 giây để đón đầu, dập lửa trước khi ngọn lửa kịp lan truyền tới các khu vực khác trong hệ thống đường lò (Hình 3 d,e). Đây là hệ thông hoạt động hoàn toàn độc lập không phụ thuộc vào nguồn điện bên ngoài. Hệ thống АСВП-ЛВ, 1М được áp dụng rộng rãi tại Ucraina và từ năm 2007 thiết bị được liên kết sản xuất tại tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) cung cấp cho các Công ty khai thác than tại đây. 4. Ưu, nhươc điểm của các hệ thống chống cháy lan truyền 4.1. Hệ thống bị động + Nếu vụ nổ quá yếu, sóng nổ không thể lật đổ các giá và giải phóng vật liệu trơ (bụi đá). Điều này thường xảy ra khi hệ thống giá gần hơn 60m với nguồn phát sinh vụ nổ. + Tại các đường lò có tốc độ gió lớn, bụi có thể bị thổi bay ra khỏi giá làm giảm hiệu quả ngăn ngừa bảo vệ; + Hệ thống sử dụng bụi đá có tác dụng tối đa với ngọn lửa có tốc độ lan truyền từ 100 ÷ 500 m/s. Điều này làm hạn chế khả năng ứng dụng trong những điều kiện khác nhau của vụ cháy - nổ; + Với các gương đào lò và khai thác tiến nhanh, hệ thống sử dụng bụi đá gặp phải khó khăn trong công tác lắp đặt do phải di chuyển liên tục để đảm bảo khoảng cách tối ưu. + Càng nhiều thiết bị trên đường lò, khả năng lắp đặt hệ thống chống cháy lan truyền với các đặc điểm kỹ thuật cần thiết càng khó khăn. + Khi gương đào lò hoặc khai thác càng tiến nhanh, hệ thống chống cháy lan truyền càng phải di chuyển nhiều để đảm bảo khoảng cách theo yêu cầu. + Hệ thống chống cháy lan truyền bị động có thể bị giảm hiệu quả làm việc bởi không gian trống trong đường lò, ví dụ như đường lò bị rỗng nóc. 4.2. Hệ thống chủ động So với các hệ thống chống cháy lan truyền bị động, hệ thống chủ động có những ưu điểm sau: - Chất gây ức chế dập tắt cháy nổ được phân tán bởi một nguồn năng lượng khép kín độc lập; - Hệ thống phù hợp với những đường lò xuyên vỉa chính, nơi mà thường có chiều cao nhỏ hơn 80% chiều rộng; - Hệ thống phù hợp với những khu vực có gương (đào lò hoặc khai thác) tiến nhanh; - Hệ thống mang tính tiêu chuẩn an toàn cao do có khả năng dập tắt ngọn lửa trước khi nó phát 44 KHCNM SỐ 2/2021 * AN TOÀN MỎ THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ triển thành một vụ nổ với quy mô đầy đủ. - Hệ thống có thể phát hiện được giai đoạn đầu của công tác lan truyền. Hầu hết các hệ thống yêu cầu phải có nguồn điện cung cấp bên ngoài, chỉ có hệ thống của Nga hoạt động độc lập dựa trên cảm biến áp suất, không phụ thuộc vào nguồn điện. Tại các mỏ than hầm lò, việc cung cấp nguồn điện có cơ cấu phòng nổ tương đối phức tạp, nhất là đối với các thiết bị cần di chuyển liên tục theo tiến độ sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề này có thể khắc phục bằng cách sử dụng pin hoặc bình ắc quy. 5. Kết luận Dựa trên tổng hợp kinh nghiệm cho thấy, các phương pháp chống cháy lan truyền chủ động có nhiều ưu điểm hơn so với các phương pháp bị động. Tuy nhiên, hệ thống chống cháy lan truyền chủ động phức tạp, khó lắp đặt và gặp khó khăn trong công tác di chuyển, cụm thiết bị có giá thành cao. Các mỏ than hầm lò tại Việt Nam hiện nay có nhiều diện sản xuất đào lò và khai thác nên khả năng áp dụng rộng rãi hệ thống chống cháy lan truyền chủ động phức tạp, có giá thành cao như trên tại tất cả các đường lò có nguy cơ cháy nổ là chưa thực tế. Với điều kiện khí hậu nóng ẩm tại Việt Nam, các đường lò thường xuyên có rò nước qua các kẽ nứt từ bề mặt địa hình hoặc vùng đất đá lân cận. Do đó, các hệ thống chống cháy lan truyền sử dụng bột đá sẽ trở nên kém hiệu quả, nguyên nhân do các bột đá sẽ bị vón cục. Ngoài ra khả năng giữ ổn định các hệ thống sử dụng bột đá cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt tại các đường lò có lưu lượng gió lớn.Với mục tiêu chính là nâng cao an toàn, hiệu quả trong phòng chống cháy nổ, cùng với yếu tố dễ dàng thực hiện gia công, lắp đặt, bảo dưỡng. Trong giai đoạn hiện tại, phương pháp chống cháy lan truyền bằng hệ thống túi nước treo theo kiểu Nhật Bản được coi là khả thi, có khả năng sản xuất nội địa cao, phù hợp với điều kiện thực tế của các mỏ hầm lò tại Việt Nam. Tài liệu tham khảo: [1]. Quy chuẩn Kỹ thuật quốc gia QCVN 01:2011/BCT về an toàn trong khai thác than hầm lò. BCT -2011. [2.]. Инструкция по локализации и предупреждению взрывов пылегазовоздушных смесей в угольных шахтах, Москва 2013. [3]. Отчет о научно-иследовательской работе. Алализ действующих в угольных шахтах систем локализации взрывов и оценка и эффективности их применения, Москва 2014. [4]. D. H. (Steve) Zou, S. Panawalage, Graduate Student. “Passive and Triggered Explosion Barriers in Underground Coal Mines- A literature review of recent research”, Canada- 2001. Research on and proposal of the fire spread prevention solutions to the underground coal mines in Quang Ninh Dr. Nguyen Minh Phien, MSc. Pham Huu Hai, MSc. Thieu Dinh Thanh Vinacomin – Instiute of Mining Science and Technology Abstract: The Methane explosion is considered to be the biggest danger to the coal mining industry. When a methane gas explosion occurs, if there are no measures to prevent the explosion spread, it will result in more serious consequences that are the consecutive chain and mine dust explosion. The research on and proposal of the effective fire spread prevention measures in the roadway system when a gas explosion occurs are considered to be essential for all the underground coal mines with potential methane gas fire and explosion risks.
File đính kèm:
- nghien_cuu_de_xuat_giai_phap_chong_chay_lan_truyen_cho_cac_m.pdf