Nghi thức lời nói trong hoạt động giao tiếp và rèn luyện nghi thức lời nói cho học sinh Tiểu học
Nói tới giao tiếp của xã hội loài người là nói
tới giao tiếp bằng ngôn ngữ vì chỉ con người
mới có ngôn ngữ. Ngôn ngữ ra đời đã gắn kết
con người lại với nhau chặt chẽ hơn, và xã hội
loài người thì được “xã hội hoá” mạnh mẽ
hơn bởi tính quy ước chặt chẽ của nó. Xã hội
càng phát triển, tính quy ước của ngôn ngữ
càng cao, với những nghi thức ngày càng tinh
tế và phức tạp. Ngôn ngữ học hiện đại đã ngày
càng chú ý hơn tới ngôn ngữ trong mối quan
hệ với các nhân tố văn hoá, xã hội hay phong
tục tập quán của cộng đồng sử dụng nó.
Ở nước ta, NTLN là một thuật ngữ mới xuất
hiện trong thời gian gần đây, khi ngôn ngữ
học chuyển dần sang hướng nghiên cứu lời
nói. NTLN là dùng tiếng nói để phục vụ cho
nghi thức ứng xử. Có rất nhiều cách hiểu khác
nhau về NTLN:
Trong cuốn “Nghi thức lời nói Nga”, Akisina
A.A và N.I.Formanovskaija đã nêu lên một
định nghĩa khá đầy đủ về NTLN. NTLN là
“Những quy tắc ứng xử lời nói đặc trưng của
từng dân tộc được dùng trong các tình huống
có những người đối thoại đang tiếp xúc và
giao tiếp với giọng điệu được lựa chọn phù
hợp với hoàn cảnh giao tiếp, với các dấu hiệu
xã hội của những người đối thoại và các mối
quan hệ giữa họ với nhau, và được biến thành
các động hình giao tiếp”.
Từ điển tiếng Việt của Viện Nghiên cứu ngôn
ngữ học 2005 có định nghĩa: “NTLN là
những điều quy định theo quy ước xã hội
hoặc thói quen cần phải làm đúng để đảm bảo
tính nghiêm túc của sự giao tiếp”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghi thức lời nói trong hoạt động giao tiếp và rèn luyện nghi thức lời nói cho học sinh Tiểu học
ho kiểu kết hợp ngữ âm, cú pháp nhiên, phong cách khẩu ngữ tự nhiên của của phát ngôn. chúng ta cũng cần phải phát triển theo hướng Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố văn hoá, nghĩa là việc sử dụng nó và bản thân của ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, các kiểu nó phải gắn với những hành vi văn minh xã kết hợp từ thành câuđể tạo ra một phát hội, phải loại bỏ những kiểu nói năng thô tục, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 3 - 8 kém văn hoá. Ngôn ngữ là một mặt của văn hỏi ở các em, hướng các em trở thành những hoá, là nơi tàng trữ văn hoá và biểu hiện văn con người năng động, sáng tạo, hoàn thiện hoá của cá nhân, gia đình và của toàn xã hội. trong xã hội mới. Ngôn ngữ và văn hoá không thể tách rời Qua khảo sát, chúng tôi thấy không nhiều tài nhau. Do đó, cần phải nhận thức được tầm liệu nghiên cứu về việc rèn luyện NTLN cho quan trọng của việc sử dụng NTLN trong học sinh tiểu học. Phan Phương Dung trong khẩu ngữ, trong giao tiếp. Ý thức về nhiệm vụ bài viết “Về vấn đề dạy lời nói văn hoá trong không ngừng trau dồi NTLN văn minh, hiện giao tiếp ngôn ngữ cho học sinh qua môn đại, hợp với bản sắc dân tộc là góp phần trực Tiếng Việt” [2] đã bàn về một số mẫu bài tập tiếp đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng dạy lời nói văn hoá cho học sinh tiểu học và Việt, là một phẩm chất không thể thiếu được học sinh trung học cơ sở. Cũng tác giả này, đối với con người mới ở thời đại của chúng ta. trong bài viết “Các phương tiện từ ngữ biểu Đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: đạt tính lễ phép trong giao tiếp và khả năng “ Tiếng Việt ta giàu và đẹp. Nó sẽ giàu và đẹp ứng dụng trong dạy học tiếng Việt ở tiểu hơn nữa nếu chúng ta biết giữ nó, dùng nó và học”[3] đã đề cập một cách cụ thể các phát triển nóGiữ gìn nó và phát triển nó như phương tiện từ ngữ biểu đạt tính lễ phép trong thế nào? Đây là vấn đề cần suy nghĩ”. [4, 93] giao tiếp và việc ứng dụng từ ngữ biểu đạt Thực vậy, công việc này không đơn thuần là tính lễ phép trong dạy học tiếng Việt ở tiểu nhiệm vụ của ngành ngôn ngữ học mà là công học. Nguyễn Thị Thu Hương trong “Dạy học việc của toàn dân. Làm tốt việc kế thừa và NTLN cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập cách tân NTLN của dân tộc phải đặt trên làm văn”[5] mới chỉ đề cập đến nội dung và phạm vi toàn xã hội, nhưng quan trọng và phương pháp dạy học NTLN cho học sinh lớp nòng cốt nhất là nhà trường phổ thông, đặc 2 và trong một phân môn Tập làm văn; biệt là nhà trường tiểu học - nơi đặt những Nguyễn Trí với “Một số vấn đề về dạy hội “viên gạch” nền móng cho hệ thống giáo dục thoại cho học sinh tiểu học” [10] đã giới thiệu phổ thông và quan trọng hơn là sự hình thành các kiểu bài tập dạy học NTLN trong bộ sách và phát triển nhân cách con người sau này. giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, Trần Thị Hiền “Thế hệ trẻ phải nói và viết tốt hơn chúng ta” Lương trong công trình “Một số biện pháp và nhiệm vụ của nhà trường là “phải làm sao nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học cho học sinh dần dần có ý thức, có trình độ rồi sinh tiểu học ở môn Tiếng Việt”[7] đã xác đi đến có thói quen viết và nói đúng tiếng định được các biện pháp dạy học rèn kĩ năng Việt” [4, 93]. Muốn thực hiện được lời dạy đó, nói cho học sinh xuất phát từ đặc điểm lứa trường tiểu học cần phải có cách thức tổ chức, tuổi học sinh tiểu học Có thể nói, nghiên phương pháp dạy học hợp lý và tích cực nhằm cứu về NTLN nói chung và NTLN cho học nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng Việt, sinh tiểu học nói riêng đã và đang được các giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt. nhà giáo dục trên thế giới và trong nước quan Dạy học NTLN là một nội dung mới của tâm ở những bình diện khác nhau: tầm quan chương trình tiếng Việt tiểu học. Lần đầu trọng của việc dạy học NTLN, các tiêu chí tiên, chương trình môn Tiếng Việt năm 2001 xây dựng NTLN và cách tiếp cận, phân loại và năm 2006 đưa NTLN thành một nội dung và miêu tả NTLN tiếng Việt, một số biện học tập. Các NTLN trong chương trình hầu pháp nâng cao chất lượng dạy học hết là các nghi thức được sử dụng trong giao NTLNTuy nhiên, để giải quyết toàn diện tiếp hàng ngày, gần gũi, phù hợp với nhu cầu vấn đề dạy học NTLN cho học sinh ở bậc tiểu nói năng của học sinh. Việc đưa thêm nội học nhằm thực hiện tốt yêu cầu nguyên tắc dung dạy học này vào sẽ giúp học sinh biết giao tiếp trong dạy học tiếng Việt gắn với cách giao tiếp ứng xử trong nhiều tình huống chương trình và sách giáo khoa mới hiện nay của cuộc sống và giúp các em phát triển được thì vẫn chưa có công trình hay một chuyên tất cả các dạng lời nói mà cuộc sống đang đòi luận nào có tính hệ thống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 3 - 8 Khả năng ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp đẹp. Các em cần có ý thức về những điều của mỗi người phụ thuộc rất nhiều vào sự “nên” và “không nên”, “tốt” và “không tốt” hiểu biết xã hội. Với đối tượng học sinh, việc trên bình diện sử dụng ngôn ngữ. Đồng thời, học tập, tích luỹ vốn sống, vốn hiểu biết về khi đến trường, các em cũng bắt đầu tham gia văn hoá giao tiếp và cách thể hiện các thái độ vào một môi trường giao tiếp mới có tính chất ứng xử đó bằng phương tiện ngôn ngữ tương xã hội - giao tiếp trong lớp học - với những ứng chủ yếu diễn ra ở môi trường gia đình, đòi hỏi riêng khác với môi trường giao tiếp nhà trường và xã hội. Trong đó, giáo dục nhà của gia đình mà các em đã quen thuộc. trường, mà cơ bản là môn Tiếng Việt giữ một Sản phẩm lời nói của các em được hình thành vai trò đáng kể. trong quá trình giao tiếp. Các em đã học được Ở trường Tiểu học, qua các giờ tập đọc, giờ những câu nói đúng dựa vào việc ghi nhớ một kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với nhiều cách có ý thức những lời nói diễn ra xung mẫu lời nói thể hiện sự ứng xử mang màu sắc quanh của ông bà, bố mẹ, anh chịCác em văn hoá của cộng đồng người Việt. Với nắm quy tắc ấy một cách cụ thể, trực giác những mẫu lời nói này, nếu người dạy chú ý bằng những lời nói cụ thể trong những tình khai thác sẽ có tác dụng rất lớn đến việc dạy huống riêng biệt. Cách học như vậy thường sử dụng NTLN trong giao tiếp cho học sinh. chỉ là học gì biết đấy, nhớ gì nói đấy, cách Cách ứng xử giao tiếp có văn hoá học sinh diễn đạt, nói năng phần lớn là cứng nhắc, dập được tiếp xúc hàng ngày qua các mẫu lời nói khuôn, không linh hoạt, sinh động. Các em trong các bài tập đọc, kể chuyện cứ thấm vào chỉ có khả năng nói lại được lời người khác đứa trẻ một cách tự nhiên và khi cần, các em mà không thể sáng tạo ra cách nói mới, cách sẽ học tập theo mẫu. Để học sinh có năng lực nói khác của riêng mình. Ở đây, việc nắm các sử dụng tiếng Việt như một công cụ để học NTLN chỉ là việc nắm cách nói đúng một số tập và giao tiếp, cùng với nội dung dạy các câu cụ thể, lời nói cụ thể gắn liền với những kiến thức về tiếng Việt, cần chú ý hơn nữa tình huống giao tiếp nhất định. Thoát khỏi đến việc hướng dẫn cho học sinh những “quy tình huống giao tiếp, dường như các em khó tắc xã hội”, những chuẩn mực của xã hội khi có thể tạo ra lời nói đúng, hay. Với cách học sử dụng ngôn ngữ. Khi đến trường, học sinh ấy, việc hình thành kỹ năng tạo lời nói đúng lần đầu biết đến “chuẩn ngôn ngữ” không NTLN thường mất nhiều thời gian, công sức phải ở dạng thuật ngữ mà các em cần có ý mà hiệu quả lại thấp. thức rằng không phải ai muốn nói thế nào Dạy học NTLN cho học sinh tiểu học không cũng được mà phải phân biệt cái gì là“có phải là dạy “kỹ thuật” ngôn ngữ trong hoạt thể”, cái gì là “không thể” khi sử dụng ngôn động giao tiếp mà là dạy “kỹ thuật” giao tiếp ngữ. Các em cần ý thức được rằng mọi người bằng ngôn ngữ. Vì vậy, để thúc đẩy việc hình trong xã hội đã thoả thuận, quy ước nói thế thành kỹ năng kỹ xảo trong giao tiếp nói này thì được (hợp chuẩn) mà nói thế khác thì chung và sử dụng NTLN nói riêng ở các em không được (không hợp chuẩn) dẫu cho điều một cách mau chóng, thuận lợi và lâu bền đó là hợp logic. Ví dụ có thể nói áo cộc tay phải giúp học sinh thông hiểu các quy tắc mà không thể nói áo cộc cổ, có thể nói què ngôn ngữ bằng việc cho các em tiếp cận với chân mà không thể nói què mắt, có thể nói các tình huống và xử lý các tình huống đó. mặc áo mà không thể nói mặc tất (dẫn theo Kết quả của việc tham gia xử lý tình huống sẽ [8,39] )Đồng thời với ý thức về chuẩn mực được phản ánh vào quá trình tư duy của các ngôn ngữ, học sinh cần phải được giáo dục về em. Nhờ có cảm giác, tri giác, các tình huống “chuẩn văn hoá” của lời nói. Các em không của thực tế khách quan sẽ được lưu giữ trong những cần biết cái gì là có thể, không thể khi trí nhớ của các em và sẽ giúp các em dần dần nói năng mà cần hiểu rằng có những lời hay ý hình thành những khái niệm mới, từ ngữ mới đẹp và có những lời nói không hay, không có tính chất chuẩn mực, văn hoá. Chính vì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 3 - 8 thế, ở các lớp tiểu học, việc hướng dẫn cho nhau thể hiện văn hoá ứng xử của người Việt. học sinh quan sát, xử lý, tích luỹ những sự Giới thiệu bản thân với những bạn bè cùng vật, sự việc của các tình huống giao tiếp là lứa tuổi khi mới gặp nhau lần đầu sẽ khác với một việc làm quan trọng.Để củng cố những việc giới thiệu bản thân với khách của bố mẹ. biểu tượng có được ở các em thật đậm nét, Sự khác nhau này không chỉ ở lời xưng hô, ở giáo viên cần chú ý lặp đi lặp lại các tình ngữ điệu nói mà ở trong thông tin, ở ngôn huống giao tiếp (thật và giả định) để thông ngữ sử dụng, ở phong cách lời nói và còn thể qua việc lặp đi lặp lại ấy, các NTLN được lưu hiện qua thái độ. giữ một cách tự nhiên và bền vững. Không phải ngẫu nhiên từ xa xưa cha ông ta Bởi lẽ đó, chương trình Tiếng Việt đã đưa ra đã quan niệm “Tiên học lễ, hậu học văn”. rất nhiều bài tập phát triển lời nói trong đó có Ngày nay, con người hiện đại cần có nhiều các bài tập luyện NTLN cho học sinh với phẩm chất để đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện nhiều hình thức khác nhau, rất gần gũi với đời đại như tự tin, có cá tính, năng động, sáng sống của học sinh.Những bài tập này đều có tạoNhưng không phải vì thế mà ta xem nhẹ nội dung rất cần thiết và rất thông dụng, hay việc giáo dục nhân cách cho học sinh. Thái độ gặp trong cuộc sống hàng ngày của các em. lễ phép, giao tiếp, ứng xử bằng lời nói lễ phép Chúng sẽ là những gợi ý để định hướng là những yêu cầu không thể thiếu đối với nguồn ngữ liệu cho học sinh trong quá trình nhân cách của đứa trẻ. Sự lễ phép trong giao giao tiếp. tiếp là thể hiện đạo đức, quan điểm của trẻ với Ví dụ 1: Tập nói lời chào. con người, với cuộc sống. Sự lễ phép được hình thành từ nhiều con đường khác nhau. - Của bé với mẹ trước khi bé vào lớp, Một trong những con đường ấy là ngôn ngữ. - Của bé với cô trước khi bé ra về. Vì “ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư (Tiếng Việt 1, tập 2, tr 74) tưởng” (Các Mác). Ngôn ngữ cũng góp phần Ví dụ 2: Nói lời cảm ơn của em trong những hình thành, củng cố những nhận thức, quan trường hợp sau: điểm của con người. Hơn nữa, theo lý thuyết hành động thì nhận thức của con người được a. Bạn cùng lớp cho em đi chung áo mưa. hình thành qua hành động, nó tác động tới b. Cô giáo cho em mượn quyển sách. tình cảm, nhận thức của con người. Do đó, c. Em bé nhặt hộ em chiếc bút rơi. cần phải nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt NTLN (Tiếng Việt 2, tập 1, tr 38) trong khẩu ngữ, trong giao tiếp. Việc sử dụng Ví dụ 3 : Tự giới thiệu về em với mẹ của bạn đúng NTLN, kèm theo là phép lịch sự trong em, khi em đến nhà bạn em lần đầu. Tự giới từng tình huống phải trở thành bài học vỡ thiệu về em với bác hàng xóm, khi bố bảo em lòng của mọi người. sang mượn bác cái kìm. Tự giới thiệu về em với cô Hiệu trưởng, khi em đến phòng cô mượn lọ hoa cho lớp TÀI LIỆU THAM KHẢO (Tiếng Việt 2, tập 1, tr 147) [1]. Đỗ Hữu Châu (2003) Đại cương ngôn Sự phong phú về nguồn ngữ liệu trong các ngữ học, Tập 2, Nxb Giáo dục,Hà Nội. bài tập này không chỉ giúp học sinh thông [2]. Phan Phương Dung(2001) “Về vấn đề thạo các kĩ năng mà còn giúp các em có thể dạy lời nói văn hoá trong giao tiếp ngôn ngữ bắt đầu bước vào cuộc sống. Ví dụ, dạy học cho học sinh qua môn Tiếng Việt”, Tạp chí sinh lớp 1, lớp 2 biết giới thiệu đơn giản về Nghiên cứu Giáo dục bản thân, gia đình, trường học, bạn bè, thầy [3]. Phan Phương Dung(2002) “Các phương cô giáo theo mục đích nhất định chính là dạy tịên từ ngữ biểu đạt tính lễ phép trong giao tiếp học sinh nói về các hoàn cảnh giao tiếp khác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 3 - 8 và khả năng ứng dụng trong dạy học tiếng Việt [1]. Lê Phương Nga (2009)(chủ biên), Lê A, ở tiểu học”,Tạp chí Ngôn ngữ, số 16. [4]. Phạm Văn Đồng, “Giữ gìn sự trong sáng Đặng Kim Nga, Đỗ Xuân Thảo, Phương pháp tiếng Việt”, Tạp chí Văn học, số 3, 1966. dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Nxb Đại học [5]. Nguyễn Thị Thu Hương, Dạy học nghi Sư phạm, Hà Nội. thức lời nói cho học sinh lớp 2 qua phân môn [2]. Hoàng Trọng Phiến (1981) Đặc trưng Tập làm văn, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ nói tiếng Việt, Tập san ĐHNN GDH, ĐHSPHN,2005. Tokyo, Tokyo. [6]. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ- Tính [3]. Nguyễn Trí (2007), Một số vấn đề dạy hội quy luật của cơ chế ngôn ngữ, Nxb Khoa học thoại cho học sinh tiểu học, NXB Giáo dục. Xã hội,Hà Nội. [7]. Trần Thị Hiền Lương (2009), Một số biện [4]. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo học sinh tiểu học ở môn Tiếng Việt, Đề tài dục, Hà Nội. NCKH - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. SUMMARY IN RITUAL SPEECH COMMUNICATION AND SPEECH TRAINING PROTOCOLS FOR PRIMARY STUDENTS Dang Thi Le Tam College of Education - Thainguyen University Ritual speech is a term that appears in recent times, when language learning turns a speech research. Ceremonial speech voice is used for ritual behavior. Thus it needs to be aware of the importance of the use of ritual in the word of words, in communication to serve the establishment, maintenance and development of social relationships.Teaching the rituals of speech is a new part in teaching Vietnamese at primary school. The implementation of this program will help pupils to communicate and be have well in their real life and develop all the forms of their speech that they need, orienting them to become active, creative, and perfect in their new socity. Key words: ritual speech, communication, Vietnamese, primary, situation Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 3 - 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
File đính kèm:
- nghi_thuc_loi_noi_trong_hoat_dong_giao_tiep_va_ren_luyen_ngh.pdf