Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng

Năng lượng là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người và là một yếu tố đầu vào không

thể thiếu được của hoạt động kinh tế. Khi mức sống của người dân càng cao, trình độ sản xuất

của nền kinh tế ngày càng hiện đại thì nhu cầu về năng lượng cũng ngày càng lớn, và việc thỏa

mãn nhu cầu này thực sự là một thách thức đối với hầu hết mọi quốc gia. Ở Việt Nam, sự khởi

sắc của nền kinh tế từ sau Đổi Mới làm nhu cầu về điện gia tăng đột biến trong khi năng lực cung

ứng chưa phát triển kịp thời. Nếu tiếp tục đà này, nguy cơ thiếu điện vẫn sẽ còn là nỗi lo thường

trực của ngành điện lực Việt Nam cũng như của các doanh nghiệp và người dân cả nước.

Bài viết này được bố cục như sau. Trong phần đầu tiên, chúng tôi sẽ phân tích một cách ngắn gọn

tình hình cung - cầu điện năng ở Việt Nam. Sau đó, bài viết bàn đến một số lựa chọn của Việt

Nam trong việc giải quyết bài toán thiếu hụt điện năng. Về dài hạn, chúng tôi cho rằng bên cạnh

việc khai thác các nguồn năng lượng truyền thống, chúng ta phải chuyển dần sang các dạng năng

lượng mới, đặc biệt chú trọng tới các nguồn năng lượng có khả năng tái tạo và thân thiện với môi

trường. Trong phần cuối cùng của bài viết, chúng tôi xem xét tiềm năng và tính khả thi của một

nguồn năng lượng tái tạo sạch – đó là năng lượng gió – như là một gợi ý trong chiến lược đa dạng

hóa nguồn năng lượng. Chúng tôi hết sức thận trọng khi đưa ra những nhận định về các lựa chọn

chiến lược nhằm đảm bảo cung ứng điện năng phục vụ nhu cầu phát triển, cũng như để đảm bảo

an ninh năng lượng của đất nước. Chúng tôi hy vọng sẽ có dịp quay lại chủ đề rất quan trọng này

trong một bài viết khác, sau khi có điều kiện tiến hành những nghiên cứu sâu sắc và đầy đủ hơn

đối với bài toán an ninh năng lượng từ góc độ kinh tế học năng lượng.

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 1

Trang 1

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 2

Trang 2

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 3

Trang 3

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 4

Trang 4

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 5

Trang 5

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 6

Trang 6

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 7

Trang 7

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 8

Trang 8

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng trang 9

Trang 9

pdf 9 trang duykhanh 19540
Bạn đang xem tài liệu "Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng

Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng
g Minh 5
thì vào năm 2020, nếu theo đúng tiến độ thì công suất điện hạt nhân sẽ đạt mức 2000 MW, bằng 
7% tổng công suất. Cũng theo dự báo này, khi ấy nhiệt điện khí sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất (38%), 
sau đó là đến thủy điện (29%), nhiệt điện than (17%) và nhập khẩu (9%). 
Trong phần cuối của bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích tiềm năng của một dạng năng 
lượng tái tạo và sạch ở Việt Nam, đó là năng lượng gió. Phần này không có tham vọng trình bày 
một cách tổng quan hay đầy đủ mọi khía cạnh của việc phát triển năng lượng gió, mà chỉ nhằm 
góp thêm một lời bàn về khả năng phát triển năng lượng gió nhằm đa dạng hóa nguồn cung cấp 
năng lượng, đồng thời đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển năng lượng bền 
vững cho Việt Nam. Một điều đáng lưu ý là trong hàng loạt giải pháp phát triển nguồn điện để 
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế (như nhập khẩu điện, phát triển thủy điện, hay điện hạt nhân), 
dường như Việt Nam còn bỏ quên điện gió, một nguồn điện mà trong mấy năm trở lại đây có tốc 
độ phát triển cao nhất trên thị trường điện thế giới, hơn nữa giá thành ngày càng rẻ và rất thân 
thiện với môi trường. 
Giá thành của điện gió, liệu có đắt như định kiến? 
Cho đến tận những năm 1990, nhiều người vẫn cho rằng giá thành (bao gồm giá lắp đặt và vận 
hành) của các trạm điện gió khá cao. Nhưng ngày nay, định kiến này đang được nhìn nhận và 
đánh giá lại, đặc biệt khi quan niệm giá thành không chỉ bao gồm chi phí kinh tế mà còn gồm cả 
những chi phí ngoài (external cost – như chi phí 
về xã hội do phải tái định cư, hay về môi trường 
do ô nhiễm). Trong khi nguồn năng lượng từ 
nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt 
đang bị coi là kém ổn định và có xu thế tăng giá, 
thì cùng với sự phát triển nhanh chóng của công 
nghệ, giá thành của các trạm điện gió càng ngày 
càng rẻ hơn. 
Thử lấy một ví dụ cụ thể để so sánh giá thành của 
điện gió và thủy điện. Nhà máy thủy điện Sơn La 
với 6 tổ máy, tổng công suất thiết kế là 2400 
MW, được dự kiến xây dựng trong 7 năm 
với tổng mức đầu tư là 2,4 tỷ USD. Giá 
thành khi phát điện (chưa tính đến chi phí 
môi trường) là 70 USD/MWh. Như vậy để 
có được 1 KW công suất cần đầu tư 1.000 
USD trong 7 năm. Trong khi đó theo thời giá 
năm 2003 đầu tư cho 1 KW điện gió ở nhiều 
nước Châu Âu cũng vào khoảng 1.000 USD. 
Đáng lưu ý là giá thành này giảm đều hàng 
năm do cải tiến công nghệ. Nếu thời gian sử 
dụng trung bình của mỗi trạm điện gió là 20 
Hình 3: Giá thành xây lắp trạm điện gió (trục tung)
tính theo công suất mỗi trạm phát (trục hoành). Năm 
1998, giá thành chưa đến 1000 USD/MW. Năm 
2020, giá sẽ giảm xuống chỉ còn 650 USD/MW . 
 Hình 2: Chi phí xã hội của điện gió, 
nhiệt điện than và khí ở Đan Mạch 
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng 
Vũ Thành Tự Anh/Đàm Quang Minh 6
năm thì chi phí khấu hao cho một KWh điện gió là sẽ 14 USD. Cộng thêm chi phí thường xuyên 
thì tổng chi phí quản lý và vận hành sẽ nằm trong khoảng 48 – 60 USD/MWh - tương đương với 
thủy điện, vốn được coi là nguồn năng lượng rẻ và hiệu quả. Theo dự đoán, đến năm 2020 giá 
thành điện gió sẽ giảm đáng kể, chỉ khoảng 600 USD/KW, khi ấy chi phí quản lý và vận hành sẽ 
giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 30 USD/MWh6,7. 
Ở Việt Nam cũng đã có một dự án điện gió với công suất 50 MW, đó là nhà máy điện gió 
Phương Mai ở Bình Định phục vụ cho Khu Kinh tế Nhơn Hội. Tổng đầu tư giai đoạn 1 cho 
50MW điện là 65 triệu USD, và giá bán điện dự kiến là 45 USD/MWh8. Tiếc rằng tiến độ xây 
dựng nhà máy quá chậm chạp (mặc dù thời gian dự kiến xây lắp chỉ trong khoảng một năm), và 
vì vậy không thể đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án một cách chính xác để so sánh với giá thành 
của các nguồn năng lượng khác hiện có ở Việt Nam. 
Những lợi ích về môi trường và xã hội của điện gió 
Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi trường và ít gây ảnh hưởng xấu về mặt 
xã hội. Để xây dựng một nhà máy thủy điện lớn cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng các rủi ro có thể 
xảy ra với đập nước. Ngoài ra, việc di 
dân cũng như việc mất các vùng đất 
canh tác truyền thống sẽ đặt gánh nặng 
lên vai những người dân xung quanh 
khu vực đặt nhà máy, và đây cũng là 
bài toán khó đối với các nhà hoạch định 
chính sách. Hơn nữa, các khu vực để có 
thể quy hoạch các đập nước tại Việt 
Nam cũng không còn nhiều. 
Song hành với các nhà máy điện hạt 
nhân là nguy cơ gây ảnh hưởng lâu dài 
đến cuộc sống của người dân xung 
quanh nhà máy. Các bài học về rò rỉ hạt 
nhân cộng thêm chi phí đầu tư cho công 
nghệ, kĩ thuật quá lớn khiến càng ngày 
càng có nhiều sự ngần ngại khi sử dụng 
loại năng lượng này. 
Các nhà máy điện chạy nhiên liệu hóa 
thạch thì luôn là những thủ phạm gây ô 
nhiễm nặng nề, ảnh hưởng xấu đến môi 
trường và sức khỏe người dân. Hơn thế 
nguồn nhiên liệu này kém ổn định và 
giá có xu thế ngày một tăng cao. 
6 “Wind Power Economic – Wind Energy Costs – Investment Factors.” EWEA 2005 – www.eawa.org (các giá thành 
được quy đổi theo tỷ giá 1 Euro = 1,2 USD) 
7 Danish Wind Industry Association,  
8 “Điện năng từ gió, tiềm năng chưa được đánh thức”, 
hoc/2005/05/3B9DE056/ 
Hình 4: Bản đồ tiềm năng điện gió Việt Nam 
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng 
Vũ Thành Tự Anh/Đàm Quang Minh 7
Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh những chi phí sản xuất 
truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió càng trở nên rõ rệt. So với các nguồn 
năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà máy nhiệt điện Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn 
(các nhà máy thủy điện lớn), khi sử dụng năng lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do 
thất thu hoa mầu hay tái định cư, và họ cũng không phải chịu thêm chi phí y tế và chăm sóc sức 
khỏe do ô nhiễm. 
Ngoài ra với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió giúp tiết kiệm chi phí 
truyền tải. Hơn nữa, việc phát triển năng lượng gió ở cần một lực lượng lao động là các kỹ sư kỹ 
thuật vận hành và giám sát lớn hơn các loại hình khác, vì vậy giúp tạo thêm nhiều việc làm với 
kỹ năng cao. 
Tại các nước Châu Âu, các nhà máy điện gió không cần đầu tư vào đất đai để xây dựng các trạm 
tourbin mà thuê ngay đất của nông dân. Giá thuê đất (khoảng 20% giá thành vận hành thường 
xuyên) giúp mang lại một nguồn thu nhập ổn định cho nông dân, trong khi diện tích canh tác bị 
ảnh hưởng không nhiều. 
Cuối cùng, năng lượng gió giúp đa dạng hóa các nguồn năng lượng, là một điều kiện quan trọng 
để tránh phụ thuộc vào một hay một số ít nguồn năng lượng chủ yếu; và chính điều này giúp phân 
tán rủi ro và tăng cường an ninh năng lượng. 
Tiềm năng điện gió của Việt Nam 
Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với bờ biển dài, Việt Nam có một thuận lợi cơ bản để 
phát triển năng lượng gió. So sánh tốc độ gió trung bình trong vùng Biển Đông Việt Nam và các 
vùng biển lân cận cho thấy gió tại Biển Đông khá mạnh và thay đổi nhiều theo mùa9. 
9 “Biển Đông”, tập 2, Khí tượng Thủy văn Động lực Biển – Phạm Văn Ninh chủ biên., 2003. NXB Đại học Quốc gia 
Bảng 2: Tiềm năng về năng lượng gió của Đông Nam Á (ở độ cao 65m) 
Yếu Trung bình Tốt Rất tốt 
Lý 
tưởng Tổng Quốc gia 9 m/s 
Campuchia Diện tích 175.468 6.155 315 30 0 
 % diện tích 96,4% 3,4% 0,2% 0% 0% 
 Tiềm năng (MW) NA 24.620 1.260 120 0 26.000 
Lào Diện tích 184.511 38.787 6.070 671 35 
 % diện tích 80,2% 16,9% 2,6% 0,3% 0% 
 Tiềm năng (MW) NA 155.148 24.280 2.684 140 182.252 
Thái Lan Diện tích 477.157 37.337 748 13 0 
 % diện tích 92,6% 7,2% 0,2% 0% 0% 
 Tiềm năng (MW) NA 149348 2992 52 0 152.392 
Việt Nam Diện tích 197.342 100.361 25.679 2.187 113 
 % diện tích 60,6% 30,8% 7,9% 0,7% 0,00% 
 Tiềm năng (MW) NA 401.444 102.716 8748 452 513.360 
Nguồn: Ngân hàng Thế giới 
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng 
Vũ Thành Tự Anh/Đàm Quang Minh 8
Trong chương trình đánh giá về Năng lượng cho Châu Á, Ngân hàng Thế giới đã có một khảo sát 
chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam (Bảng 2). Như vậy Ngân 
hàng Thế giới đã làm hộ Việt Nam một việc quan trọng, trong khi Việt Nam còn chưa có nghiên 
cứu nào đáng kể. Theo tính toán của nghiên cứu này, trong bốn nước được khảo sát thì Việt Nam 
có tiềm năng gió lớn nhất và hơn hẳn các quốc gia lân cận là Thái Lan, Lào và Campuchia. Trong 
khi Việt Nam có tới 8,6% diện tích lãnh thổ được đánh giá có tiềm năng từ „tốt“ đến „rất tốt“ để 
xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn thì diện tích này ở Campuchia là 0,2%, ở Lào là 2,9%, và ở 
Thái-lan cũng chỉ là 0,2%.10 Tổng tiềm năng điện gió của 
Việt Nam ước đạt 513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần 
công suất của thủy điện Sơn La, và hơn 10 lần tổng công 
suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Tất nhiên, để 
chuyển từ tiềm năng lý thuyết thành tiềm năng có thể khai 
thác, đến tiềm năng kỹ thuật, và cuối cùng, thành tiềm năng 
kinh tế là cả một câu chuyện dài; nhưng điều đó không ngăn 
cản việc chúng ta xem xét một cách thấu đáo tiềm năng to 
lớn về năng lượng gió ở Việt Nam. 
Nếu xét tiêu chuẩn để xây dựng các trạm điện gió cỡ nhỏ 
phục vụ cho phát triển kinh tế ở những khu vực khó khăn 
thì Việt Nam có đến 41% diện tích nông thôn có thể phát 
triển điện gió loại nhỏ. Nếu so sánh con số này với các nước 
láng giềng thì Campuchia có 6%, Lào có 13% và Thái Lan 
là 9% diện tích nông thôn có thể phát triển năng lượng gió. 
Đây quả thật là một ưu đãi dành cho Việt Nam mà chúng ta 
còn thờ ơ chưa nghĩ đến cách tận dụng. 
Đề xuất một khu vực xây dựng điện gió cho Việt Nam 
Ở Việt Nam, các khu vực có thể phát triển năng lượng gió 
không trải đều trên toàn bộ lãnh thổ. Với ảnh hưởng của gió 
mùa thì chế độ gió cũng khác nhau. Nếu ở phía bắc đèo Hải Vân thì mùa gió mạnh chủ yếu trùng 
với mùa gió đông bắc, trong đó các khu vực giàu tiềm năng nhất là Quảng Ninh, Quảng Bình, và 
Quảng Trị. Ở phần phía nam đèo Hải Vân, mùa 
gió mạnh trùng với mùa gió tây nam, và các vùng 
tiềm năng nhất thuộc cao nguyên Tây Nguyên, các 
tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long, và đặc 
biệt là khu vực ven biển của hai tỉnh Bình Thuận, 
Ninh Thuận. 
Theo nghiên cứu của NHTG, trên lãnh thổ Việt 
Nam, hai vùng giàu tiềm năng nhất để phát triển 
năng lượng gió là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng 
đồi cát ở độ cao 60-100m phía tây Hàm Tiến đến 
Mũi Né (Bình Thuận). Gió vùng này không những 
có vận tốc trung bình lớn, mà còn có một thuận lợi 
khác, đó là số lượng các cơn bão khu vực ít và gió 
có xu thế ổn định. Đây là những điều kiện rất 
10 “Wind Energy Resource Atlas of Southeast Asia”, 2001. Có thể download toàn bộ cuốn Atlas này tại địa chỉ: 
Hình 6: Khu vực Ninh Thuận – Bình Thuận, 
Tây Nguyên được đánh giá là có tiềm năng 
Hình 5: Gió mạnh vào tháng 12 
đến tháng 2 năm sau là sự bổ sung 
hữu ích cho các tháng thiếu nước 
của các thủy điện 
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Năng lượng gió của Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng 
Vũ Thành Tự Anh/Đàm Quang Minh 9
thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Trong những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió nam và đông 
nam lên đến 98% với vận tốc trung bình 6-7 m/s11 tức là vận tốc có thể xây dựng các trạm điện 
gió công suất 3 - 3,5 MW. Thực tế là người dân khu vực Ninh Thuận cũng đã tự chế tạo một số 
máy phát điện gió cỡ nhỏ nhằm mục đích thắp sáng. Ở cả hai khu vực này dân cư thưa thớt, thời 
tiết khô nóng, khắc nghiệt, và là những vùng dân tộc đặc biệt khó khăn của Việt Nam. 
Mặc dù có nhiều thuận lợi như đã nêu trên, nhưng chúng ta cần phải lưu ý một số điểm đặc thù 
của năng lượng gió để có thể phát triển nó một cách có hiệu quả nhất. Nhược điểm lớn nhất của 
năng lượng gió là sự phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và chế độ gió. Vì vậy khi thiết kế, cần 
nghiên cứu hết sức chi tiết về chế độ gió, địa hình cũng như loại gió không có các dòng rối (có 
ảnh hưởng không tốt đến máy phát). Cũng vì những lý do có tính phụ thuộc vào điều kiện môi 
trường như trên, năng lượng gió tuy ngày càng phổ biến và quan trọng nhưng không thể là nguồn 
năng lượng chủ lực. Tuy nhiên, khả năng kết hợp giữa điện gió và thủy điện tích năng lại mở ra 
cơ hội cho Việt Nam, một mặt đa dạng hóa được nguồn năng lượng trong đó kết hợp những 
nguồn năng truyền thống với những nguồn lượng tái tạo sạch với chi phí hợp lý; mặt khác khai 
thác được thế mạnh, đồng thời hạn chế của mỗi nguồn năng lượng, và tận dụng các nguồn năng 
lượng này trong mối quan hệ bổ sung lẫn nhau. Một điểm cần lưu ý nữa là khả năng các trạm 
điện gió sẽ gây ô nhiễm tiếng ồn trong khi vận hành, cũng như có thể phá vỡ cảnh quan tự nhiên 
và có thể ảnh hưởng đến tín hiệu của các sóng vô tuyến nếu các yếu tố về kỹ thuật không được 
quan tâm đúng mức. Do vậy, khi xây dựng các khu điện gió cần tính toán khoảng cách hợp lý đến 
các khu dân cư, khu du lịch để không gây những tác động tiêu cực. 
Thay cho lời kết 
Nhằm đáp ứng mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, trong trung hạn Việt Nam cần tiếp tục khai 
thác các nguồn năng lượng truyền thống. Về dài hạn, Việt Nam cần xây dựng chiến lược và lộ 
trình phát triển các nguồn năng lượng mới. Trong chiến lược này, chi phí kinh tế (bao gồm cả chi 
chí trong và chi chí ngoài về môi trường, xã hội) cần phải được phân tích một cách kỹ lưỡng, có 
tính đến những phát triển mới về mặt công nghệ, cũng như trữ lượng và biến động giá của các 
nguồn năng lượng thay thế. Trong các nguồn năng lượng mới này, năng lượng gió nổi lên như 
một lựa chọn xứng đáng, và vì vậy cần được đánh giá một cách đầy đủ. 
Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Việc không đầu tư nghiên cứu và phát 
triển điện gió sẽ là một sự lãng phí rất lớn trong khi nguy cơ thiếu điện luôn thường trực, ảnh 
hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong khi đó, hiện nay 
chiến lược quốc gia về điện dường như mới chỉ quan tâm tới thủy điện lớn và điện hạt nhân - 
những nguồn năng lượng có mức đầu tư ban đầu rất lớn và ẩn chứa nhiều rủi ro về cả mặt môi 
trường và xã hội. 
Nếu nhìn ra thế giới thì việc phát triển điện gió đang là một xu thế lớn, thể hiện ở mức tăng 
trưởng cao nhất so với các nguồn năng lượng khác. Khác với điện hạt nhân vốn cần một quy trình 
kỹ thuật và giám sát hết sức nghiêm ngặt, việc xây lắp điện gió không đòi hỏi quy trình khắt khe 
đó. Với kinh nghiệm phát triển điện gió thành công của Ấn Độ, Trung Quốc, và Phi-lip-pin, và 
với những lợi thế về mặt địa lý của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển năng lượng 
điện gió để đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Liệu Việt Nam có thể „đi tắt, đón 
đầu“ trong phát triển nguồn năng lượng hay không phụ thuộc rất nhiều vào các quyết sách ngày 
hôm nay. 
11 Bùi Hồng Long, Tống Phước Hoàng Sơn. “Một số kết quả tính toán các đặc trưng thống kê khí tượng – thủy động 
lực khu vực biển bắc Bình Thuận.” 2002, Tuyển tập Nghiên cứu Biển tập XII. 

File đính kèm:

  • pdfnang_luong_gio_cua_viet_nam_tiem_nang_va_trien_vong.pdf