Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực chuyên ngành Kế toán & Kiểm toán tại trường Đại học Hải Phòng
TÓM TẮT: Việc đào tạo nguồn nhân lực kế toán- kiểm toán hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu của thị trường, do đó công tác này cần được nghiên cứu đổi mới cho phù hợp.
Mục đích của bài viết nhằm khảo sát thực trạng đào tạo kế toán - kiểm toán tại Trường Đại
học Hải Phòng trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu,
trên cơ sở đó có các đánh giá và biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo kế toán - kiểm toán
nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực chuyên ngành Kế toán & Kiểm toán tại trường Đại học Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực chuyên ngành Kế toán & Kiểm toán tại trường Đại học Hải Phòng
đủ độ tin cậy để đưa vào thống kê. Kết quả khảo sát như sau: Về chương trình đào tạo Kế toán- kiểm toán đang áp dụng Trước hết, việc đào tạo Kế toán - kiểm toán hiện nay vẫn còn có một số môn học có trùng lặp một phần về nội dung khoa học và giáo trình sử dụng chưa thực sự gắn với thực tiễn. Tác giả khẳng định điều này thông qua việc trao đổi trực tiếp với sinh viên đang theo học cũng như dựa trên tìm hiểu về các tài liệu học tập hiện nay. Đây là một hạn chế ngay cả các trường đại học lớn của Việt Nam vẫn còn tồn tại. Mặc dù Việt Nam đã ban hành các chuẩn mực kiểm toán dựa trên cập nhật chuẩn mực quốc tế nhưng hầu hết giáo trình kiểm toán được sử dụng đều được soạn chủ yếu theo các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính nên hạn chế phần nào đến khả năng suy luận và phát triển kiến thức của sinh viên. Có thể đánh giá cụ thể hơn về chương trình đào tạo qua bảng 1: 108 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Bảng 1: Khảo sát về chương trình đào tạo Kế toán - Kiểm toán gắn lý thuyết với thực tiễn TT Biến quan sát Mean Std. Deviation 1 CTDT1- Chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán có khối lượng kiến thức đại cương phù hợp, là nền tảng cho chuyên ngành 3.16 .684 2 CTDT2- Các học phần trong chương trình đào tạo đã có sự cập nhật các kiến thức kế toán, kiểm toán quốc tế 3.17 .611 3 CTDT3- Chương trình đào tạo có sự phân bổ hợp lý giờ lý thuyết và thực hành nhằm giúp tiêp cận thực tiễn nghề kế toán – kiểm toán 4.03 .727 4 CTDT4 – Việc đào tạo các kỹ năng chuyên môn phục vụ kế toán, kiểm toán (sử dụng máy tính, phần mềm) được chú trọng trong chương trình đào tạo 3.78 .583 5 CTDT5- Chương trình đào tạo có chú trọng giai đoạn thực tập nghề kế toán, kiểm toán và hợp tác với doanh nghiệp 3.53 .690 6 CTDT6- Các học phần có cung cấp kỹ năng mềm phục vụ cho hoạt động kế toán, kiểm toán 3.32 .703 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu trên SPSS 22.0 Thời lượng của chương trình đào tạo chưa thực sự đủ để sinh viên có thể phát triển kỹ năng kế toán, kiểm toán do sinh viên phải dành thời gian khá nhiều trong năm thứ 1, thứ 2 để học các kiến thức về triết học, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên. Khối kiến thức chung còn mang tính lý thuyết, chưa thực sự làm cơ sở cho kiến thức chuyên ngành (có thể nhận thấy vấn đề này trong kết quả khảo sát biến CTDT1, mean N1=3,16), trong khi khối kiến thức chuyên ngành lại bị xé lẻ. Các kiến thức đào tạo truyền tải đến cho sinh viên hiện nay mới chỉ dừng lại ở nguyên lý về kế toán, kiểm toán mà chưa có sự kết nối với các kiến thức về kinh tế, tài chính. Điều này làm cho sinh viên bị hạn chế ở việc nhìn nhận, đánh giá và phân tích thông tin do kế toán và kiểm toán cung cấp. Các doanh nghiệp thì lại muốn tuyển những người có thể làm công việc chuyên môn được ngay để giảm bớt chi phí và thời gian đào tạo. Số lượng sinh viên trong một lớp khá nhiều (40 đến 80 sinh viên/lớp tùy từng thời điểm), trong khi đó chỉ có một giảng viên hướng dẫn nên việc đào tạo kỹ năng làm việc hạn chế. Việc phân bổ giờ lý thuyết và thực hành trong chương trình đào tạo về cơ bản đã đảm bảo (mean CTDT3= 4,03), tuy nhiên tỷ lệ các học phần chuyên ngành trong chương trình có thực hành sử dụng hệ thống máy tính hỗ trợ là chưa cao (mean CTDT4= 3,78). Điều này được tác giả làm rõ hơn trong phần khảo sát về tổ chức hoạt động giảng dạy. 109 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 37, tháng 11/2019 Về việc tiếp cận các kiến thức kế toán, kiểm toán theo chương trình quốc tế, kết quả khảo sát ở biến CTDT2 (các học phần cập nhật kiến thức kế toán, kiểm toán quốc tế) ở mức trung bình. Bên cạnh đó chương trình đào tạo Kế toán- kiểm toán vẫn chưa tính nhiều đến vấn đề hội nhập, ngoại ngữ và kỹ năng mềm của người làm Kế toán - Kiểm toán sau này chưa được chú trọng thích đáng (biến CTDT6). Hiện tại, ở Hải Phòng, chưa có một trường đại học, cao đẳng nào có sự liên kết chính thức với các tổ chức đào tạo quốc tế về kế toán, kiểm toán có uy tín. Nguyên nhân cơ bản là các trường hầu như chưa có đầy đủ kinh phí để thực hiện việc liên kết đào tạo đồng thời sinh viên và giảng viên vẫn chưa có tinh thần cạnh tranh trong học tập, tìm kiếm cơ hội tiếp cận với các hoạt động đào tạo theo chuẩn quốc tế. Điều này một phần có thể do, Hải Phòng vẫn chưa thực sự phát triển mạnh về các công ty cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán, áp lực cạnh tranh trong việc tìm kiếm cơ hội phát triển nghề nghiệp tại các công ty này chưa cao. Hơn nữa, chưa có một cơ sở đào tạo uy tín theo chuẩn quốc tế đặt chi nhánh, văn phòng tại Hải Phòng, do đó sinh viên và giảng viên đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn đào tạo chất lượng cao này. Giảng viên muốn cập nhật kiến thức qua các khóa đào tạo nhưng bị giới hạn về thời gian, khó sắp xếp bố trí công việc do khó khăn về vị trí địa lý. Kết quả khảo sát về thực tập, thực hành qua biến CTDT5 cho thấy sự phối hợp với các doanh nghiệp để sinh viên đi thực tập tốt nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, thời gian thực tập ít. Sinh viên có được hỗ trợ thực tập kế toán, kiểm toán nhưng không nhiều, phần lớn là Khoa chuyên môn hợp tác với các doanh nghiệp kiểm toán VACO, kiểm toán An Việt, công ty Tân Kế toán trong các năm gần đây hoặc do sinh viên tự thi tuyển thực tập. Tuy nhiên sự chủ động liên hệ thực tập của sinh viên cũng rất ít, ngay cả khi được Khoa hỗ trợ, sinh viên cũng không thể hiện sự nhiệt tình, năng động. Về tổ chức hoạt động giảng dạy kiểm toán Bảng 2: Khảo sát về tổ chức hoạt động giảng dạy kiểm toán TT Biến quan sát Mean Std. Deviation 1 TCGD1 - Giảng viên có kiến thức chuyên môn sâu về kế toán, kiểm toán 4.52 .644 2 TCGD2 - Giảng viên có phương pháp đào tạo phù hợp với chuyên ngành kiểm toán, luôn tạo điều kiện để sinh viên phát huy khả năng 3.85 .944 3 TCGD3 - Các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn kế toán, kiểm toán luôn được giảng viên gợi mở, liên hệ 3.81 .745 4 TCGD4 - Hoạt động giảng dạy theo định hướng nghề kiểm toán, sinh viên được thực hành 4.05 .987 110 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG TT Biến quan sát Mean Std. Deviation 5 TCGD5 - Sinh viên được tiếp cận đầy đủ với các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về kế toán, kiểm toán (trong nước và quốc tế) tại thư viện trường 3.06 .759 6 TCGD6 - Trường có phòng kế toán ảo hoặc các trang thiết bị phục vụ việc thực hành kế toán, kiểm toán của sinh viên 2.16 .846 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu trên SPSS 22.0 Khi đánh giá về kiến thức chuyên môn của giảng viên, mean TCGD1 = 4,52, kết quả này phản ánh khá sát thực tế do các giảng viên phụ trách học phần chuyên sâu đều có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đúng chuyên ngành kế toán, kiểm toán. Về phương pháp đào tạo, giá trị mean TCGD2 =3,85 và mean TCGD3 = 3,81, kết quả khảo sát đa phần ở mức độ trung bình. Trong các năm qua, mặc dù giảng viên đã có cố gắng trong việc cải tiến phương thức giảng dạy, tuy nhiên do xuất phát từ chính bản thân sinh viên chưa thực sự chủ động trong việc tự học, tự nghiên cứu nên chủ yếu việc đào tạo vẫn theo cách truyền thống là đọc - chép, sinh viên ra trường chậm làm quen với công việc kế toán, kiểm toán. Mặc dù giảng viên có đưa các nội dung kiến thức nhằm gợi mở suy nghĩ, tìm tòi cho sinh viên, làm sinh động cho bài giảng nhưng lượng sinh viên hưởng ứng lại không nhiều. Sinh viên vẫn chưa có điều kiện được thực hành nhiều trong thực tiễn các hoạt động kế toán, kiểm toán, chỉ có một số rất ít sinh viên được tham gia thực tập tại một số công ty kiểm toán. Hơn nữa, việc tiếp cận tự nghiên cứu chuyên sâu cũng khó thực hiện (mean TCGD5 = 3,06) khi nguồn tài liệu của thư viện phần lớn là rất cũ, có những giáo trình kiểm toán mới nhất cũng xuất bản từ năm 2011, 2012, còn chưa cập nhật theo hệ thống chuẩn mực kiểm toán mới ban hành năm 2012. Mặc dù sinh viên được khảo sát đều đánh giá hoạt động giảng dạy có hướng tới định hướng thực hành (giá trị mean TCGD4 là 4,01) tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong tổ chức thực hành của sinh viên. Nguyên nhân là do cơ sở vật chất và kinh phí của các trường trong khu vực thường quá thiếu (giá trị mean biến TCGD6 chủ yếu ở mức thấp), Trường Đại học Hải Phòng đang trong giai đoạn triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng phòng kế toán ảo, nhưng hệ thống máy móc sử dụng được rất thấp so với tỷ lệ sinh viên. Do đó việc thực hành của sinh viên trong quá trình đào tạo không cao, kỹ năng sử dụng phần mềm kế toán, máy tính và các phương tiện quản lý khác còn yếu, kỹ năng về phân tích, tổ chức hệ thống thông tin kế toán bằng phương tiện hiện đại còn mơ hồ. Hầu hết sinh viên trả lời học kỹ năng chuyên môn chủ yếu qua lý thuyết, thực hành trên chứng từ, sổ sách thủ công, được thực hành trên hệ thống máy tính hiện đại là rất ít. Một kỹ năng quan trọng của kiểm toán là kỹ năng thực hành kiểm toán báo cáo tài chính thì gần như các sinh viên được khảo sát đều trả lời không nắm được cách thức cũng do điều kiện về cơ sở vật chất rất khó để tiến hành. 111 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 37, tháng 11/2019 Về đánh giá kết quả đào tạo nhân lực kiểm toán Bảng 3: Kết quả khảo sát về đánh giá về kết quả đào tạo kiểm toán Biến quan sát Mean Std. Deviation KQ1 - Chương trình đào tạo ngành kế toán, kiểm toán có áp dụng được vào thực tế 3.96 .894 KQ2 - Các kỹ năng chuyên môn của nghề kế toán, kiểm toán (sử dụng phần mềm, máy tính, phân tích, thực hành kiểm toán) thành thạo 3.15 .916 KQ3 - Sinh viên được trang bị tốt về kỹ năng mềm trong hoạt động kế toán, kiểm toán 3.84 .871 KQ4 - Khả năng giao tiếp ngoại ngữ và tìm hiểu tài liệu quốc tế về chuyên ngành kế toán, kiểm toán tốt 3.53 .830 KQ5 - Sinh viên có khả năng tự nghiên cứu, tích lũy kiến thức để hội nhập quốc tế sâu rộng về kế toán, kiểm toán 3.01 . 960 KQ6 - Sinh viên sau tốt nghiệp tự tin tham gia tuyển dụng và làm việc tại các vị trí kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp 2.78 1.01 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu trên SPSS 22.0 Đánh giá chương trình đào tạo ngành kiểm toán có áp dụng được vào thực tế không, mean = 3,96 (chủ yếu là mức độ trung bình), điều này khá phù hợp với các nghiên cứu trước đây về thực trạng đào tạo ở Việt Nam nói chung, hầu hết sinh viên được hỏi đều cho rằng đào tạo ngành kiểm toán vẫn còn nặng về kiến thức hàn lâm. Sinh viên tốt nghiệp phần lớn được trang bị khá chắc về lý thuyết kế toán, kiểm toán nhưng lại không được thực hành nhiều nên kỹ năng làm việc còn nhiều hạn chế. Không chỉ là thực hành trên máy về kế toán, kiểm toán, ngay cả chương trình tin học được đào tạo hiện nay cũng không đáp ứng được thực tiễn đòi hỏi kỹ năng Microsoft word và excel, mà vẫn còn thiên về các kiến thức lập trình nhiều hơn. Kết quả này phù hợp với nhận xét của đội ngũ giám đốc/chủ nhiệm kiểm toán, trưởng/phó phòng tài chính kế toán của các doanh nghiệp được phỏng vấn, đó là sinh viên chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán thường yếu ở các kỹ năng sử dụng các ứng dụng cơ bản như excel trong hạch toán, hay các phần mềm kế toán. Đối với các sinh viên mới tốt nghiệp làm việc tại các doanh nghiệp kiểm toán, việc trình bày thủ tục, kết quả kiểm toán trên các giấy tờ làm việc bằng excel thường gặp khó khăn. Với các sinh viên kế toán các nhà quản lý được phỏng vấn đã đánh giá các sinh viên gần như chưa có kỹ năng trong việc lập báo cáo tài chính và các báo cáo kế toán khác. Hoạt động kế toán, kiểm toán tại doanh nghiệp không chỉ quan tâm tới hạch toán đúng chế độ, tuân thủ chuẩn mực kế 112 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG toán, kiểm toán mà còn phải tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ liên quan. Các sinh viên mới ra trường phần lớn chưa nắm được các chính sách, quy định liên quan mật thiết đến công tác kế toán, kiểm toán như thuế, bảo hiểm, và cũng chưa có kinh nghiệm để xử lý sao cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả phỏng vấn sâu các nhà quản lý phụ trách kế toán, kiểm toán, tất cả người được hỏi đều cho rằng sinh viên khá lúng túng khi tìm và sử dụng các văn bản pháp lý liên quan đến nghiệp vụ. Về ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Anh đang trở thành các thách thức với hoạt động đào tạo tại các trường đại học nói chung và Trường Đại học Hải Phòng nói riêng, kết quả khảo sát cho thấy giá trị mean KQ4 = 3,53, phần lớn đều ở mức độ trung bình đến khá. Điều này cũng là một trong các nguyên nhân dẫn tới việc sinh viên khó tiếp cận các kiến thức kế toán, kiểm toán trong tài liệu quốc tế và sinh viên tốt nghiệp không tự tin với việc tham gia tuyển dụng các vị trí kế toán, kiểm toán yêu cầu ngoại ngữ hoặc các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Thực tế cho thấy, khi sinh viên năm thứ 4 trong giai đoạn thực tập tốt nghiệp, khi các doanh nghiệp kiểm toán tuyển dụng vào vị trí thực tập sinh, các sinh viên thường e ngại đăng ký thi tuyển do không đáp ứng về điều kiện ngoại ngữ hoặc nếu có thi tuyển thì kết quả thi ngoại ngữ khá thấp so với kết quả thi nghiệp vụ. Do hạn chế về ngoại ngữ, đây cũng là một trong các lý do sinh viên tốt nghiệp thiếu tự tin trong việc ứng tuyển vào các vị trí kế toán, kiểm toán tại các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài (mean = 2,78). Bên cạnh đó, các chủ nhiệm kiểm toán cũng nhận định các chương trình kiểm toán của các doanh nghiệp sử dụng ngôn ngữ viết bằng tiếng Anh cũng là rào cản đối với thực tập sinh và nhân viên mới trong việc tiếp cận. 4. BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CHUYÊN NGÀNH KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 4.1. Về phía khoa chuyên môn, giảng viên chuyên ngành Từ yêu cầu và thực tế trên, để các sinh viên Kế toán - Kiểm toán của Trường Đại học Hải Phòng có thể đáp ứng được các đòi hỏi về kỹ năng nghề nghiệp, cần đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương thức đào tạo kế toán và kiểm toán. Về chương trình đào tạo áp dụng, cần đa dạng hơn, linh hoạt hơn cho chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán. Cần tiếp tục rà soát để lược bỏ các học phần trùng lặp về nội dung khoa học, bổ sung các học phần đào tạo chuyên sâu về tin học văn phòng, ngoại ngữ và kỹ năng mềm phục vụ lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Chú trọng đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tiệm cận với chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế ISA, IAS và IFRS. Tất nhiên việc đổi mới chương trình cần có lộ trình, có thể xây dựng theo các module kiến thức cơ bản như nguyên lý kế toán, lý thuyết kiểm toán, luật kế toán, kiểm toán,... để làm tiền đề, là nền tảng trang bị cho sinh viên các kiến thức chung nhằm tiếp tục học các module chuyên ngành. Về nội dung, cần phong phú về kiến thức để vừa đảm bảo những kiến thức lý thuyết cơ bản, có tính nguyên lý và khoa học vừa có tính thực tiễn. Khoa học kế toán có tính độc lập và khá hoàn chỉnh cả về nội
File đính kèm:
- nang_cao_chat_luong_dao_tao_nhan_luc_chuyen_nganh_ke_toan_ki.pdf