Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt

Hội cổ truyền kết tinh nhiều giá trị văn hóa của cộng đồng làng xã,

trong đó các nghi thức giao tiếp, ứng xử với thần linh là một trong những nội dung chủ

yếu, tạo nên yếu tố “thiêng” của hội. Bài viết đề cập đến một số nghi thức gợi ý thần

linh trong hội cổ truyền Việt, nhận diện khái quát đặc điểm của tín ngưỡng thờ thần

trong làng xã và những ước vọng chung của cộng đồng, từ đó gợi mở hướng bảo tồn và

phát huy giá trị.

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 1

Trang 1

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 2

Trang 2

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 3

Trang 3

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 4

Trang 4

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 5

Trang 5

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 6

Trang 6

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 7

Trang 7

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 8

Trang 8

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 9

Trang 9

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 3940
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt

Một số nghi thức gợi ý thần linh trong hội cổ truyền Việt
 nhất là được no đủ, 
phồn thịnh. Trong hội cổ truyền, tất cả hoạt động dường như đều xoay quanh việc cầu 
mùa. Đặc trưng trong canh tác lúa nước của người Việt là sử dụng nguồn nước tại chỗ: 
(nước mưa) đọng trong các ao, hồ, đầm, ít sử dụng mương phai. Chính vì vậy, mong 
ước mưa thuận gió hòa đã trở thành nỗi ám ảnh ngàn đời trong tâm thức cộng đồng, 
người nông dân luôn phải trông (mong, canh chừng): trông trời, trông đất, trông mây, 
trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm... Việc cầu mùa được biểu hiện qua vô số 
nghi thức trong hội cổ truyền ở khắp các vùng miền. Người ta có thể cảm nhận tiếng 
trống hội, tiếng pháo rền vang làm rung động bầu sinh khí ở tầng trên, như tiếng sấm 
gọi cơn mưa hay múa rồng, múa sư tử biểu hiện về sự vần vũ của mây trời, hướng tới 
ước vọng cầu mùa... 
 Việc cầu mưa còn ẩn tàng trong những nghi lễ, trò diễn riêng. Ở nhiều làng ven 
sông vùng châu thổ Bắc Bộ đều tổ chức rước nước với nghi thức có nhiều nét tương 
đồng. Những người tham gia cho 3 chiếc thuyền (số lẻ - số của sự sống) ra giữa dòng 
sông (thường ở vị trí thiêng như ngã ba hoặc trước cửa đình, đền...). Vị trí lấy nước 
được xác định bằng cách cắm cọc giữ một vòng tròn đỏ (hình tượng bầu trời - màu đỏ - 
sinh khí - mầm sống của muôn loài, muôn vật). Khi nghi thức lấy nước bắt đầu, ba 
thuyền cùng chèo chống nối nhau chạy ba vòng (ngược chiều kim đồng hồ). Sau đó, 
người chủ lấy gáo đồng hoặc gáo dừa sơn đỏ múc nước sông đổ vào chóe (được phủ 
miệng bằng vải đỏ). Có thể thấy, nước được lấy về không còn là nước sông đơn thuần, 
qua những lần được thiêng hóa (lấy ở không gian thiêng, trong thời gian thiêng, bằng 
dụng cụ thiêng và đựng trong vật dụng thiêng), vì thế nước được lấy về có sức linh vô 
bờ, giúp cho muôn loài, muôn vật được tươi tốt. 
 Vào những năm trời hạn hán, nhiều làng còn tổ chức tục "ngự dội" để cầu mưa. 
Đền thánh Tến ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa thờ Lê Phụng Hiểu (sau chuyển hóa thành 
Thánh Tến, Thánh Bưng). Trong truyền thuyết dân gian, biểu tượng của ông Bưng là 
đám mây. Trong truyện còn kể: ông Bưng có bình nước mưa nên giỏi việc làm mưa. 
Khi trời hạn, dân làng làm lễ rước tượng Thánh trong đền ra sông Mã, múc nước tắm 
cho tượng. Nước dội đến đâu dùng khăn điều lau sạch đến đấy. Sau đó khiêng kiệu lên 
bờ và rước về làng. Không biết việc này linh nghiệm đến đâu, chỉ biết một số cụ già 
trong làng còn kể: có năm, rước về chưa đến làng, mưa đã ập xuống như trút nước. 
 99 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
 Nghi thức cầu mưa còn được tiến hành bằng những cuộc đua thuyền trên sông. 
Đây là một "trò" không chỉ có ở Việt Nam mà khá còn phổ biến ở nhiều nơi thuộc Đông 
Nam Á. Ngày nay, hội đua thuyền chỉ được hiểu ở phương diện tiếp nối truyền thống 
thượng võ của tổ tiên. Song, có thể suy đoán ý nghĩa ban đầu của nó chính là một nghi 
thức cầu nước. Trong khi đua thuyền, các tay chèo đã ra sức bổ mạnh xuống nước tạo 
vận tốc tối đa cho thuyền đua để giành chiến thắng cho đội mình, đồng thời đó cũng tạo 
sự nổi sóng cho lòng sông. Trên bờ tiếng chiêng, tiếng trống khuấy tựa như tiếng sấm. 
Những lá cờ phất dọc, phất ngang như gợi sự vận động của bầu trời tạo ra những trận 
gió lớn. Nước bị mái chèo khua bắn tung tóe như mây tuôn... Tất cả tạo thành khung 
cảnh liên quan tới cơn mưa. Trong hội đua thuyền ở Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) chỉ 
có hai thuyền được định danh là thuyền đực (đầu hình chim) và thuyền cái (đầu hình 
cá). Như vậy âm (cái - cá - dưới - ướt) và dương (đực - chim - trên - khô) hòa hợp, 
khuấy động nước (đánh thức thủy thần) để cầu nước. Ngoài đua thuyền trên sông, trong 
nhiều hội ở miền Bắc tổ chức diễn xướng chèo chải (chèo thuyền cạn) cũng với ý nghĩa 
cầu nước này. 
 Ngược lại, còn có nhiều nghi thức cầu tạnh để lúa chắc hạt. Một trong những hình 
thức phổ biến là hội thả diều, thả chim câu. Muốn thả được diều hoặc chim câu thời tiết 
phải khô ráo, bầu trời quang đẵng, vì vậy hội thả diều gắn với mong ước "phong đăng hòa 
cốc". Hội thả diều trước đây có ở làng Nguyễn (Đông Hưng, Thái Bình), làng Bá Giang 
(Đan Phượng, Hà Nội), làng Vũ Đại (Lý Nhân, Hà Nam)... Ngày nay, ý nghĩa cầu mùa 
của hội thả diều đã phai nhạt, phủ lên trên đó là ca ngợi sự khéo léo, tinh thần thượng võ. 
Nghi lễ cầu tạnh còn có thể thấy ở một số nghi thức khác như tục phất cờ tổng ở hội đền 
bà Tấm vào những năm trời âm u để xua tan mây ám cho trời quang mây tạnh. 
 Mùa màng bội thu (hay không) còn phụ thuộc rất nhiều vào các con sông (mà 
sông ở miền Bắc thường được đắp đê). Vì vậy, trong hội cổ truyền còn có những trò 
diễn gợi ý cho dòng sông xuôi chiều yên ả, tránh ứ đọng dâng nước làm lụt lội. Kéo co 
là một trò chơi diễn tả dòng chảy của sông. Ở đền Trấn Vũ (Long Biên, Hà Nội) ven 
sông Hồng, có trò kéo co ngồi bằng thân cây song, mà phe mạn Đường (xóm gốc - vùng 
trũng) thường thắng phe mạn Chợ (xóm ngọn - vùng cao), tượng cho dòng sông chảy 
xuôi dòng. Hình thức kéo co ngồi khá đặc biệt khiến ta liên tưởng tới con rắn, vì vậy trò 
chơi này mang đậm ý nghĩa trị thủy. Ở một số nơi khác lại kéo theo chiều Đông - Tây. 
Dân làng tin rằng nếu đội phía Đông thắng thì năm đó được mùa, đội phía Tây nhiều khi 
phải giả vờ nhường cho đội phía Đông thắng. 
 Việc cầu mùa còn thường gắn với mặt trời. Trò vật cầu với quả cầu sơn đỏ như 
đã nêu trên chính nó là hình ảnh "mô phỏng" của mặt trời. Người ta còn thoáng thấy tục 
thờ mặt trời trong trò chọi gà (bởi gà gọi mặt trời dậy nên nhiều khi được đồng nhất với 
100 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
mặt trời, chọi gà là hình thức vận động của mặt trời để đem sinh khí cho cây trồng, vật 
nuôi và con người sinh sôi, phát triển). 
 Nỗi ám ảnh về mong ước mưa thuận gió hòa của người Việt mạnh mẽ đến nỗi 
một số tôn giáo du nhập vào nước ta đã được biến cải cho phù hợp với tâm thức người 
Việt. Trong hội chùa (gắn với Phật giáo) chúng ta bắt gặp nhiều nơi các sư lập đàn cầu 
mưa, nhất là những năm trời hạn. Hiện tượng độc đáo này được thấy rõ trong hội chùa 
Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Bà mẹ Man Nương (bóng dáng xã hội mẫu hệ của người 
Việt cổ) đã nhanh chóng nhập vào Phật điện (ở Luy Lâu - một mảnh đất khởi nguyên 
của đạo Phật ở Việt Nam), trở thành Phật Mẫu, và sinh ra (bằng phương pháp kết thai 
thần kỳ) Tứ pháp: Pháp Vân (mây), Pháp Vũ (mưa), Pháp Lôi (sấm, sét), Pháp Điện 
(chớp). Hội Dâu trở thành hội chung của 5 làng thờ 5 mẹ con Man Nương. Trọng tâm 
của hội là các đám rước để Tứ Pháp hội tụ và hội cùng Phật Mẫu Man Nương. Hình 
thức bên ngoài như một cuộc thăm rước giữa các thần đúng như tôn ti trật tự và sự hiếu 
thuận (các em đến thăm chị và thăm mẹ), song cái cốt lõi bên trong không khó nhận ra 
chính là biểu tượng của sự hội tụ, giao hòa các yếu tố quan trọng trong thời tiết, giúp 
cho mưa thuận gió hòa. Ý nghĩa đó được phụ họa bằng nhiều tục trò mang ý nghĩa cầu 
mưa, cầu mùa: trò đánh gậy, trò cướp nước, dâng nước, múa sưa tử, múa trống, đấu vật, 
đốt cây bông... 
 Trong hội cổ truyền còn phổ biến những nghi thức mang tính phồn thực, cụ thể như: 
 Hội đền Suối Mỡ (Lục Nam, Bắc Giang) có tục giã bánh dày vắt cặp đôi để dâng 
thờ Thánh Mẫu trong ngày hội. Tục này diễn ra rất nhộn nhịp, người ta vừa giã bánh 
vừa nói hát: “Của bà thì méo/ Của tôi thì tròn/ Giã trật hai hòn/ Thờ Cô Tích Mễ”. Theo 
tư liệu của Hoàng Minh Tường, ở làng Trường Lệ (Sầm Sơn, Thanh Hóa) có tục thờ Bò 
Nan. Bò Nan được đan bằng tre cật, có phết giấy bên ngoài, được để trong đền thờ. Khi 
tế thần, có mô tả lại các động tác "hèm" trong tục thờ. Người chủ lễ xướng "nán bò đeo" 
(cách nói lái), tiếp theo người được giao nhiệm vụ thực hành diễn xướng cầm cái dùi dài 
làm bằng cây dứa dại dụi vào đít bò nan ba lần theo lời hô của ông chủ lễ. Động tác này 
miêu tả sự giao phối giữa bò đực và bò cái, để đàn bò không ngừng được sinh sôi, nảy 
nở, con người từ đó cũng được no đủ10. 
 Tục bắt chạch trong chum cũng là một trò chơi mang đậm tính phồn thực có ở 
nhiều hội vùng Bắc Bộ. Từng cặp nam nữ, trai tay trái, gái tay phải cùng nhau thọc tay 
vào chum bắt chạch, tay còn lại người nọ ôm người kia. Con chạch trơn trượt nên thực 
chất đôi trai gái thường chỉ bắt được tay nhau rất tình tứ. Ở hội Bạch Trữ (Mê Linh, Vĩnh 
Phúc) có trò bắt vịt dưới sông, mà theo quy định chỉ có nam giới mới được tham gia. 
10 Hoàng Minh Tường, Tìm hiểu tín ngưỡng phồn thực ở Thanh Hóa, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4 (21) 
năm 2007, tr 55. 
 101 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
 Những nghi lễ phồn thực trong hội cổ truyền đã được khá nhiều công trình đề cập 
đến, chúng tôi chỉ xin điểm qua để thấy rằng một ước vọng lớn lao của người nông dân 
Việt - ước vọng cầu mùa đã được thể hiện thành nhiều lớp lang chồng lấn trong hội cổ 
truyền, như một tiếng cầu khẩn thiết của cả cộng đồng tới thần linh và cũng là yêu cầu 
đặt ra cho thần linh thực hiện (nếu cầu được thì thần đó mới thiêng). 
 2.3. Nghi thức dâng tặng thần linh những thứ quý giá để mong được che chở 
 Việc nhà nông luôn phụ thuộc khá nhiều vào thiên nhiên, mà trời đất nhiều khi 
không thuận lòng người. Trong lịch sử đã ghi lại nhiều trận lụt lớn, nhiều năm hạn hán 
khiến dân làng phải xiêu tán. Khi không đủ sức thay đổi hoàn cảnh nhưng không chịu 
chấp nhận sự khổ cực đó, người ta lại cho đó là do thần linh không "vừa lòng". Chính vì 
vậy, họ phải tìm đủ mọi cách để "chiều" thần linh, và phải chiều bằng thứ quý giá nhất 
mới có hiệu quả. Mà thứ quý giá nhất chính là sinh mạng (người hay động vật). Nghi lễ 
hiến sinh ra đời như một nghi thức đỉnh cao để "trao đổi" với thần linh, nhằm được "che 
chở", có được những điều may mắn, thuận lợi. 
 Trong lịch sử, chúng ta đã từng thấy rất nhiều dấu vết của tục hiến sinh ở Việt 
Nam và thậm chí những tục lệ này còn rơi rớt đến tận ngày hôm nay. Câu chuyện 
Nguyễn Thị Bích Châu, cung phi của Trần Duệ Tông, trở thành vật cúng thần biển, khi 
đoàn quân của vua gặp bão khi đánh Chiêm Thành11, hay công chúa Huyền Trân suýt 
chút nữa bị hỏa thiêu theo cái chết của vua Chiêm Thành Chế Mân vẫn truyền tụng đến 
tận ngày nay. Trong quá trình nạo vét sông Tô Lịch cách đây khoảng chục năm, người 
ta đã phát hiện nhiều bộ xương và đồ tùy táng sinh hoạt, mà các nhà khoa học đã đưa ra 
giả thiết về một sự hiến sinh để trấn yểm long mạch thành Đại La thuở trước. 
 Hiện nay, chúng ta có thể tìm thấy dấu vết của tục hiến sinh ở một số hội cổ 
truyền. Hội chọi trâu Đồ Sơn (Hải Phòng) là một ví dụ. Trong hội độc đáo này, có nghi 
lễ con trâu bị giết, đầu, đuôi, một nhúm lông và bát tiết được dâng cúng rồi sau đó đổ 
xuống cửa sông. Có thể hiểu, đây là nghi lễ hiến sinh cho thần biển. Con trâu là thứ rất 
quý giá với người dân Việt (con trâu là đầu cơ nghiệp), như vậy, người Việt đã dâng 
thần linh những thứ quý giá nhất của mình để cầu mong thần linh ban tặng cho sự thuận 
hòa trong mùa màng 
 Trong lễ tế hội làng của người Dao Thanh Y xã Bằng Cả (huyện Hoành Bồ, tỉnh 
Quảng Ninh), vật hiến sinh được chọn là một con gà trống. Theo quan niệm của người 
dân nơi đây, con gà trống khi ấy được coi là biểu hiện của những điều không may mắn. 
11 Tương truyền theo truyện dân gian, khi Trần Duệ Tông mang quân tới cửa biển Quảng Bình, gió thổi 
ngược khiến thuyền quân Trần không tiến được. Ông làm lễ cầu thần biển. Đêm đó thần biển báo mộng 
cho ông, đòi phải nộp một mỹ nhân mới cho thuận gió để quân đi qua. Hôm sau, Duệ Tông thuật lại 
chuyện cho mọi người nghe. Mọi người sợ hãi, chỉ có bà cung phi Nguyễn Thị Bích Châu tình nguyện 
hiến thân cho thần biển. Bà lao mình xuống biển chết và quân Trần đi qua được. 
102 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
Trong tiếng nhạc ngũ âm, những thầy mo nhảy trước ban thờ Bàn vương, một trong số 
thầy mo ôm con gà trống trước ngực. Bất thình lình, thầy mo này dừng lại nhanh như 
cắt vặn cổ con gà, vứt xác vào chiếc mẹt ở giữa chiếu - điều ấy đồng nghĩa những xui 
xẻo sẽ bay đi. Cũng dùng gà làm vật hiến sinh, tuy nhiên người Sán Dìu lại dùng gà 
trong lễ an táng. Trước khi an táng, thầy cúng ôm con gà trống lầm rầm cúng, sau đó 
ném con gà xuống huyệt mộ, đầu gà quay về hướng nào thì đặt người chết quay về 
hướng ấy. Trong lễ hội đình Lục Nà, xã Lục Hồn (Bình Liêu, Quảng Ninh), dân bản tế 
thần bằng một con lợn sống. Khi giết thịt, thay vì chọc tiết bằng dao như cách thông 
thường, người ta dùng một đoạn sắt tròn đâm ngang cổ con vật12. 
 Chúng ta cũng gặp một số nghi lễ hiến sinh khác trong hội đâm trâu (Tây 
Nguyên), tục chém lợn (Bắc Ninh) và nhiều địa phương khác, phổ biến trong các tộc ít 
người. Họ tin tưởng rằng, thần linh sẽ vui vẻ nhận lấy những vật hiến tế quý giá này, và 
trong một số nghi lễ, dòng máu đỏ của con vật bị hiến tế chính là những dòng sinh lực 
tinh túy nhất, được nhân lên bởi sức mạnh của thần linh, tưới khắp nhân gian đem lại 
mùa màng bội thu, nhân khang vật thịnh. Theo sự phát triển của khoa học, các nghi lễ 
hiến sinh đã có nhiều biến đổi: từ chỗ hiến sinh người (mà dấu tích của nó còn in đậm 
trong các câu chuyện dân gian và được ghi trong sử sách) đến hiến sinh bằng động vật, 
hoặc làm đồ mã thay thế cho người bị tiến tế. Tuy nhiên, những nghi lễ hiến sinh còn 
rơi rớt lại đến nay đang vấp phải nhiều sự phê phán, coi đó là dã man, phản cảm. 
 3. Thay cho lời kết 
 Bàn về hội cổ truyền là để hiểu thêm một di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Chỉ 
khi hiểu được một cách sâu sắc ý nghĩa của từng nghi thức, hoạt động trong hội chúng ta 
mới thấy tính thiêng liêng trong "thời điểm mạnh của sinh hoạt cộng đồng13", từ đó gạt bỏ 
được những xô bồ, thực dụng, để hướng con người tới những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. 
Thay cho lời kết, tôi muốn trích lại lời của Hippolyte Le Breton - một học giả người Pháp, 
đã nói cách đây gần 100 năm: "Vì hiểu, nên mới yêu, và càng yêu thì càng hiểu hơn, cả 
hai tiếng ấy đều trợ lực cho nhau, nên cần phải biết kết hợp với một bàn tay mạnh mẽ và 
khéo léo"14, và "Cái gọi là sự tiến bộ chỉ là truyền thống đang đi lên. Nếu không có những 
truyền thống tốt đẹp, con người sẽ bị lôi cuốn theo bản năng xấu"15. 
12baoquangninh.com.vn/van-hoa/dien-anh/200911/Tuc-hien-sinh-trong-tin-nguong-mot-so-dan-toc-o-
Quang-Ninh-2122896/ 
13 Chữ dùng của GS. Đinh Gia Khánh 
14 Hippolyte Le Breton (2014), An Tĩnh cổ lục, Nxb Văn hóa Thông tin, tr 23. 
15 Hippolyte Le Breton (2014), An Tĩnh cổ lục, Nxb Văn hóa Thông tin, tr 39. 
 103 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
 SOME GOD WORSHIPING CEREMONIES IN VIETNAMESE 
 TRADITIONAL FESTIVALS 
 Le Thi Thao, Ph.D 
 Abstract: Traditional festivals converge many cultural values of local 
communities, in which God worshiping ceremonies are main parts that create 
supernatural characteristic of the festival. The paper refers to some God worshiping 
ceremonies in Vietnamese traditional festival and identifies general characteristics of 
God worshiping belief of in local communities associated with common aspiration. And 
then, some solutions to preserve and promote values of the festivals are also proposed 
in this paper. 
 Keywords: Traditional festival, festival, belief, folk culture 
104 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_nghi_thuc_goi_y_than_linh_trong_hoi_co_truyen_viet.pdf