Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó

Tư tưởng về công bằng phân phối của K. Marx là một thành tựu trong lịch sử

tư tưởng nhân loại. Nó đấu tranh với bất công xã hội và bảo vệ quyền con người với

những nhu cầu, những điều kiện và cơ hội để phát triển trên các lĩnh vực khác nhau của

đời sống xã hội. Trong bối cảnh hiện tại, khi mà sự phát triển nhanh chóng về kinh tế

của các quốc gia đôi khi lại đi kèm với những bất công, chênh lệch trong xã hội, thì vấn

đề công bằng xã hội nói chung, công bằng phân phối nói riêng một lần nữa cần phải

được đặt lại một cách nghiêm túc. Hội thảo khoa học quốc tế “Tư tưởng của C. Mác về

công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó” do Viện Triết học (Viện Hàn lâm

KHXH Việt Nam) phối hợp với Viện Friedric Ebert Stiftung (Văn phòng Việt Nam) và

Viện Rosa Luxemburg Stiftung (Văn phòng Đông Á) tổ chức ngày 17-18/5/2017, tại

Thành phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk, nhằm khẳng định giá trị khoa học và ý nghĩa

thực tiễn về tư tưởng công bằng phân phối của K. Marx, kiến giải những vấn đề đang

đặt ra trong thực tiễn thực hiện công bằng phân phối ở các nước trên thế giới và Việt

Nam, đồng thời tìm ra giải pháp tích cực phù hợp với tình hình nước ta. Bài viết khái

quát những nội dung cơ bản của Hội thảo.

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 1

Trang 1

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 2

Trang 2

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 3

Trang 3

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 4

Trang 4

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 5

Trang 5

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 6

Trang 6

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 7

Trang 7

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 3260
Bạn đang xem tài liệu "Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó

Một số kết quả nghiên cứu chính từ Hội thảo khoa học quốc tế: Tư tưởng của C. Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa hiện thời của nó
 tế, các học 
giả đã tập trung thảo luận xoay quanh một 
số câu hỏi được đặt ra như: Có hay không 
sự song hành giữa tăng trưởng kinh tế và 
công bằng phân phối? Hay cần phải hy 
sinh công bằng cho tăng trưởng? Qua 
phân tích, trao đổi, các học giả chỉ ra một 
số vấn đề của các nước, ví dụ như trường 
hợp Lào: Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế không 
phản ảnh đúng trong công bằng phân 
phối; Các chính sách về đổi mới kinh tế 
thị trường và công bằng phân phối còn 
chưa hoàn thiện; Lãnh đạo các cấp chưa 
hiểu rõ cơ chế thị trường và công bằng 
phân phối; Việc quản lý nhà nước còn yếu 
kém chưa bảo đảm được tăng trưởng kinh 
tế, dẫn đến các hiện tượng tiêu cực ngày 
càng lan rộng trong cả nước, ảnh hưởng 
đến công bằng phân phối; Khả năng thoát 
khỏi danh sách các nước kém phát triển 
trong năm 2020 của Lào rất mong manh, 
không bảo đảm công bằng phân phối. 
Mặc dù còn có những ý kiến khác biệt 
xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa tăng 
trưởng kinh tế và công bằng phân phối 
song các học giả đều khẳng định rằng, sự 
phát triển kinh tế là tiền đề để thực hiện 
công bằng phân phối và cần phải đi đôi 
với đảm bảo công bằng phân phối. Đó là 
một khả năng, đồng thời cũng là một mục 
tiêu hướng tới. 
Ngoài ra, các tham luận tại Hội thảo 
còn đặt ra nhiều vấn đề xoay quanh mối 
quan hệ giữa nhà nước và thị trường, ai là 
người quyết định công bằng phân phối 
trong xã hội, trên cơ sở soi chiếu với quan 
niệm của K. Marx là bảo vệ nhà nước, nhà 
nước là công cụ để thực hiện công bằng 
cho nhân dân; Liệu có sự xung đột giữa 
tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng hay 
không? Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 
đồng thời gia tăng các phúc lợi xã hội là 
một giải pháp hiệu quả cho vấn đề thực 
hiện công bằng mà vẫn đảm bảo tăng 
trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới 
hiện nay. 
Bức tranh về thực hiện công bằng 
phân phối của các nước trên thế giới, ở các 
mức độ khác nhau, dựa trên nguyên tắc 
phân phối chủ đạo theo lao động bên cạnh 
các hình thức phân phối đa dạng khác, là 
những bài học quý giá cho Việt Nam. 
Tư tưởng của C. MŸc§ 41 
Vận dụng tư tưởng của K. Marx về công 
bằng phân phối ở Việt Nam 
Trước Đổi mới, Việt Nam vận dụng lý 
luận về công bằng phân phối của K. Marx 
một cách máy móc đã dẫn đến hiện tượng 
cào bằng, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. 
Sau Đổi mới, việc xác lập nền kinh tế thị 
trường và phương thức phân phối theo 
đóng góp (sức lao động, vốn) đã tạo ra 
động lực phát triển của nền kinh tế và đảm 
bảo sự công bằng tốt hơn trong phân phối. 
Cũng giống như các nước trên thế giới 
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần 
thứ tư, Việt Nam đang đứng trước sự gia 
tăng của tình trạng bất công, bất bình đẳng 
trong phân phối các thành quả của sự phát 
triển. Vì vậy, trong chiến lược phát triển 
kinh tế hiện nay, Việt Nam cần tập trung 
phân phối theo nguồn lực để giảm thiểu sự 
bất công, bất bình đẳng giữa các vùng 
miền thay vì sự tập trung phân phối theo 
sản phẩm lao động như trước đây. 
Các học giả đều thống nhất với quan 
điểm cho rằng, Việt Nam cần phải thực 
hiện công bằng kinh tế dưới góc độ bình 
đẳng về cơ hội, bình đẳng về nguyên tắc. 
Công bằng kinh tế là một môi trường cho 
mọi thành phần kinh tế tham gia một cách 
bình đẳng vào các hoạt động kinh tế, từ 
việc bình đẳng trước pháp luật, công bằng 
trong tiếp cận chính sách, các nguồn vốn, 
tín dụng, đất đai. Với cách hiểu này, ở Việt 
Nam, Nhà nước ngoài vai trò khắc phục 
những khuyết tật của thị trường còn phải 
tạo ra môi trường công bằng kinh tế làm 
tiền đề quan trọng cho công bằng xã hội. 
Trên cơ sở phân tích thực trạng công 
bằng phân phối trong nền kinh tế Việt 
Nam, các học giả đã nhận diện những 
thách thức cũng như những vấn đề mà 
nước ta đang phải đối mặt. Bên cạnh việc 
khẳng định những thành tựu mà Việt Nam 
đã đạt được trong lĩnh vực công bằng 
phân phối, một số tham luận đã chỉ ra 
những tồn tại của Việt Nam. Trong tham 
luận Phân phối thu nhập công bằng tại 
Việt Nam - Thực trạng và vấn đề, TS. 
Nguyễn Chiến Thắng đã chỉ ra vấn đề thu 
nhập bằng lương còn mang nặng dấu ấn 
bình quân, chênh lệch giữa các mức lương 
rất nhỏ; Sự bất bình đẳng về thu nhập ở 
mức chưa cao, nhưng đang có xu hướng 
tăng lên. Tham luận Công bằng phân 
phối: từ tư tưởng của Marx đến thực tiễn 
Việt Nam của PGS.TS. Bùi Văn Huyền 
chỉ rõ hệ thống an sinh xã hội đang phát 
triển nhưng mức độ bao phủ còn chiếm tỷ 
lệ nhỏ trong dân số ở Việt Nam; Hệ thống 
thuế đã qua hai lần cải cách và nhiều lần 
sửa đổi nhưng đến nay vẫn chưa bao quát 
được hết các nguồn thu và tính công bằng 
chưa cao; Luật Ngân sách nhà nước ra đời 
năm 1996 góp phần quan trọng vào sự 
phát triển của đất nước song trong quá 
trình triển khai và thực hiện đã nảy sinh 
không ít vấn đề; Bộ máy quản lý nhà nước 
còn yếu kém, tệ nạn hối lộ và tham nhũng 
phát triển làm nảy sinh phân phối theo 
quyền lực và hiện tượng “lợi ích nhóm”. 
Liên quan đến thực trạng về công 
bằng xã hội, tham luận Một số vấn đề về 
công bằng kinh tế và công bằng kinh tế ở 
Việt Nam hiện nay của PGS.TS. Nguyễn 
Tài Đông chỉ ra rằng, cùng với sự tăng 
trưởng kinh tế, Việt Nam đang tồn tại tình 
trạng bất công trong các hoạt động kinh 
tế. Thứ nhất, bất công trong lĩnh vực sản 
xuất: sản xuất hàng giả, thực phẩm bẩn, 
sản xuất được bao che bởi các nhóm lợi 
ích... Thứ hai, bất công trong lĩnh vực 
phân phối, làm cho khoảng cách giàu 
nghèo, giữa các vùng miền ngày càng 
chênh lệch sâu. Thứ ba, bất công trong 
42 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 5.2017 
lĩnh vực trao đổi: trao đổi trên thị trường 
lao động liên quan đến các vấn đề địa vị, 
quyền lợi của người lao động; trao đổi 
hàng hóa gây ra những tác hại cho nền 
kinh tế thị trường, hoặc ảnh hưởng đến an 
ninh quốc gia khi liên kết với các doanh 
nghiệp nước ngoài. Thứ tư, bất công trong 
lĩnh vực tiêu dùng. Sự lãng phí trong tiêu 
dùng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài 
nguyên thiên nhiên quốc gia, xâm hại đến 
quyền lợi của nhân dân, của thế hệ tương 
lai. Sự chênh lệch về tiêu dùng gây hại 
cho quyền lợi của nhóm người yếu thế 
trong xã hội và liên quan đến những vấn 
đề thuộc đạo đức xã hội 
 Những thách thức trên cho thấy, việc 
đảm bảo công bằng phân phối ở các nước 
XHCN như Việt Nam, trên thực tiễn, vẫn 
luôn là một vấn đề không hề đơn giản. 
Công cuộc đổi mới mặc dù đã làm thay 
đổi đáng kể diện mạo nền kinh tế mỗi 
nước, song sự tăng trưởng kinh tế không 
phải lúc nào cũng đảm bảo được sự công 
bằng trong phân phối. Để giải quyết được 
vấn đề này, các học giả đều cho rằng, tư 
tưởng của Marx vẫn có ý nghĩa to lớn đối 
với việc đảm bảo công bằng phân phối ở 
Việt Nam. Việt Nam xây dựng CNXH 
cũng chính là xây dựng một xã hội công 
bằng. Để thực hiện được mục tiêu này, 
Việt Nam cần vận dụng tư tưởng phân phối 
công bằng của K. Marx một cách khoa học 
và linh hoạt cho phù hợp với thời đại. 
Những góc tiếp cận khác về công bằng 
phân phối từ nền tảng lý thuyết của K. Marx 
Bên cạnh những đánh giá về lý thuyết 
phân phối công bằng của K. Marx và việc 
vận dụng lý thuyết này trên thực tiễn, Hội 
thảo còn đề cập đến cách tiếp cận khác 
dựa trên nền tảng lý thuyết của K. Marx 
thông qua tham luận Nhà nước và cách 
mạng - một số suy ngẫm qua cuốn sách 
“Đế quốc” của Negri và Hardt (GS. Kim 
Sang Bong) và Quyền được bảo trợ cuối 
đời và sau khi mất - sự chuyển dịch của 
già hóa và tử vong ở Nhật Bản (GS. 
Katsumi Shimane). Nội dung của hai tham 
luận này tập trung vào vấn đề: Chúng ta 
có thể hài lòng với một xã hội như thế 
nào? Con đường của Hàn Quốc và Nhật 
Bản có thực sự đáng bi quan hay không? 
Các xã hội cần phải làm gì để đảm bảo 
công bằng? 
Từ góc nhìn mỗi nước, các học giả đã 
đưa ra những kiến giải của mình, trong đó 
có xu hướng nhấn mạnh đến vai trò quản 
lý của nhà nước trong đảm bảo công bằng 
xã hội, có ý kiến lại đặc biệt quan tâm đến 
vai trò của nền tảng văn hóa và quan hệ xã 
hội. GS. Katsumi Shimane cho rằng, đằng 
sau sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, 
Nhật Bản cũng đang đánh mất nhiều thứ, 
khi mà nền tảng văn hóa và cấu trúc xã 
hội truyền thống bị xói mòn dẫn đến hạn 
chế trong việc đảm bảo một cuộc sống 
thực sự hạnh phúc và công bằng cho mỗi 
người dân, và giờ đây là lúc người Nhật 
cần chú ý hơn đến cái gọi là vốn văn hóa, 
hay vốn phát triển trong quan hệ xã hội. 
Đây không chỉ là những vấn đề liên 
quan đến những quốc gia này, mà còn là 
những bài học và đôi khi là cảnh báo cho 
Việt Nam, một đất nước vẫn đang trên con 
đường phát triển. 
* * * 
Có thể nói, các chủ đề tranh luận tại 
Hội thảo có ý nghĩa quan trọng cả về mặt 
lý luận và thực tiễn, những nội dung mà 
các học giả thảo luận đã đề cập đến nhiều 
vấn đề nóng bỏng trong xã hội Việt Nam 
và các nước châu Á, cũng như các quốc 
gia trên thế giới. Mặc dù vẫn còn nhiều 
tranh luận chưa đi đến sự thống nhất hoàn 
Tư tưởng của C. MŸc§ 43 
toàn giữa các học giả, nhưng các ý kiến 
thảo luận tại Hội thảo đã có chung nhận 
thức trong việc khẳng định rằng, đảm bảo 
công bằng phân phối là mục tiêu mà mọi 
xã hội cần hướng đến, là điều kiện cho 
một xã hội tốt đẹp hơn, và trong việc thực 
hiện mục tiêu này, tư tưởng của Marx về 
công bằng phân phối là tiền đề lý luận 
khoa học có ý nghĩa tìm ra giải pháp cho 
những khủng hoảng xã hội liên quan đến 
quyền bình đẳng của người lao động ở các 
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. 
Từ kinh nghiệm thực tiễn thực hiện 
công bằng phân phối ở một số nước trên 
thế giới, Hội thảo đã gợi mở những giải 
pháp tích cực phù hợp với tình hình của 
Việt Nam, đó là: Tăng cường vai trò của 
Nhà nước nhằm hạn chế những tác động 
tiêu cực của nền kinh tế thị trường; Thúc 
đẩy tăng trưởng kinh tế từ nhiều các thành 
phần kinh tế trong xã hội; Gia tăng các 
phúc lợi xã hội như mở rộng chính sách an 
sinh xã hội, thực hiện hiệu quả các chính 
sách xóa đói giảm nghèo; Thực hiện 
nguyên tắc phân phối chủ đạo theo lao 
động bên cạnh các hình thức phân phối đa 
dạng khác. Đồng thời, chuẩn bị các nguồn 
lực ứng phó với sự thay đổi cấu trúc xã 
hội nhằm đảm bảo các chính sách công 
bằng phù hợp với các đối tượng. Đây là 
những giải pháp vừa đem lại hiệu quả cho 
vấn đề thực hiện công bằng mà vẫn đảm 
bảo tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay. 
Hội thảo đã đánh dấu một cột mốc 
mới trong quan hệ giữa Viện Triết học 
(Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) và Viện 
Friedric Ebert Stiftung (Văn phòng Việt 
Nam), đồng thời tiếp tục gợi mở nhiều 
hàm ý cho công cuộc phát triển kinh tế và 
đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam 
trong điều kiện kinh tế thị trường. Thành 
công của Hội thảo là cơ sở để các bên có 
thể tiến tới một mối quan hệ hợp tác sâu, 
rộng và toàn diện hơn trong tương lai  
Các tham luận trích dẫn tại Hội thảo 
1. GS.TS. Phạm Văn Đức, Báo cáo đề 
dẫn: Phát biểu chào mừng hội thảo 
của lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học 
xã hội Việt Nam. 
2. PGS.TS. Nguyễn Tài Đông, Một số 
vấn đề về công bằng kinh tế và công 
bằng kinh tế ở Việt Nam hiện nay. 
3. GS. Kim Sang Bong, Nhà nước và 
cách mạng - một số suy ngẫm qua cuốn 
sách “Đế quốc” của Negri và Hardt. 
4. GS. Katsumi Shimane, Quyền được 
bảo trợ cuối đời và sau khi mất - sự 
chuyển dịch của già hóa và tử vong ở 
Nhật Bản. 
5. PGS.TSKH. Lương Đình Hải, Góp 
thêm ý kiến về công bằng trong phân 
phối ở Việt Nam hiện nay. 
6. PGS.TS. Nguyễn Minh Hoàn, Quan 
điểm của K. Marx về công bằng phân 
phối qua các giai đoạn lịch sử. 
7. PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương, Về 
một số nguyên tắc phân phối hiện đại 
trong sự so sánh với quan niệm về 
công bằng phân phối của K. Marx. 
8. PGS.TS. Bùi Văn Huyền, Công bằng 
phân phối: từ tư tưởng của Marx đến 
thực tiễn Việt Nam. 
9. TS. Feuangsy LaoFoung, Công bằng 
phân phối thực tiễn và những thách 
thức ở Lào. 
10. GS. Lutz Brangsch, Khái niệm công 
bằng trong lý thuyết của K.Marx - từ 
góc nhìn lịch sử và chính trị. 
44 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 5.2017 
11. GS.TS. Hansjorg Herr, Tư tưởng của 
K. Marx về phân phối thu nhập theo 
chức năng - một phân tích từ góc độ 
những điền mẫu khác. 
12. GS.TS. Phan Kim Nga, Vì mục tiêu 
cùng giàu có - Chính sách phân phối 
của Trung Quốc lý luận và thực tiễn. 
13. TS. Nguyễn Chiến Thắng, Phân phối 
thu nhập công bằng tại Việt Nam - 
Thực trạng và vấn đề. 
14. PGS.TS. Đặng Hữu Toàn, Tư 
tưởng của K. Marx về công bằng 
phân phối và vấn đề thực hiện 
phân phối công bằng ở Việt Nam 
hiện nay. 
15. GS. Wei Xiaoping, Về hai nguyên tắc 
trừu tượng của công bằng phân phối - 
Một số vấn đề đối với cải cách chủ 
nghĩa xã hội. 
(tiếp theo trang 62) 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to 
lớn đã đạt được về phát triển kinh tế - xã 
hội, hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt 
với nhiều vấn đề xã hội phức tạp, trong đó 
có vấn đề công bằng xã hội giữa các thành 
phần kinh tế. Nội dung sách góp phần làm 
sáng tỏ vấn đề về thực hiện công bằng xã 
hội đối với các thành phần kinh tế ở Việt 
Nam hiện nay từ góc độ lý luận và thực 
tiễn một cách cập nhật hơn, toàn diện hơn. 
Sách gồm 3 chương. 
Chương 1 trình bày một số khái niệm 
và các quan niệm về nội dung kinh tế của 
công bằng xã hội trong lịch sử; quan điểm 
của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực 
hiện công bằng xã hội đối với các thành 
phần kinh tế; nội dung và vai trò của công 
bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế 
trong nền kinh tế thị trường. 
Chương 2 phân tích những thành tựu, 
hạn chế và nguyên nhân trong việc thực 
hiện công bằng xã hội đối với các thành 
phần kinh tế ở Việt Nam từ khi Đổi mới 
đến nay. 
Chương 3 đưa ra một số quan điểm 
định hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy 
mạnh thực hiện công bằng xã hội đối với 
các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay. 
TA. 
TS. BÙI ĐỨC HÙNG (Chủ biên, 2016), 
Mô hình tăng trưởng hướng tới tăng trưởng 
xanh ở vùng Nam Trung bộ hiện nay, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 336 tr. 
Cuốn sách cung cấp một khuôn khổ lý 
thuyết tương đối cơ bản về tăng trưởng 
xanh, xây dựng hệ thống tiêu chí đặc thù 
đánh giá tăng trưởng xanh phạm vi vùng. 
Trên phương diện thực tiễn, cuốn cách 
phân tích làm rõ mô hình tăng trưởng của 
Nam Trung bộ giai đoạn 2001-2013 với 
một số đặc trưng cơ bản sau: Mô hình 
tăng trưởng theo chiều rộng với sự đóng 
góp chủ yếu của nhân tố vốn và lao động, 
vai trò của nhân tố khoa học công nghệ 
(TFP) mờ nhạt; Mô hình tăng trưởng của 
Nam Trung bộ dựa trên sự tiêu hao chủ 
yếu không bền vững về mặt môi trường và 
xã hội. Trên cơ sở đó, xây dựng quan 
điểm, định hướng và đề xuất một số giải 
pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy quá trình 
chuyển đổi mô hình tăng trưởng tới tăng 
trưởng xanh ở Nam Trung bộ đến năm 2020. 
Sách gồm 3 chương: Chương 1: Tổng 
quan về tăng trưởng xanh. Chương 2: 
Thực trạng tăng trưởng kinh tế vùng Nam 
Trung bộ giai đoạn 2001 - 2013. Chương 3: 
Định hướng và giải pháp chuyển đổi mô 
hình tăng trưởng hướng tới tăng trưởng 
xanh vùng Nam Trung bộ đến năm 2020. 
MQ. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ket_qua_nghien_cuu_chinh_tu_hoi_thao_khoa_hoc_quoc_te.pdf