Một số đặc điểm diễn thế thứ sinh thảm thực vật nhiệt đới gió mùa miền Trung Việt Nam
Diễn thế là đặc trưng cơ bản của thảm thực vật. Quá trình diễn thế biểu hiện rõ
nét bằng sự thay đổi cấu trúc, thành phần thực vật của quần xã trên một khu vực
nhất định [4, 10] hoặc là những biểu hiện về sự suy thoái, biến động quần xã dưới
các mức độ tác động khác nhau của con người [4, 7, 10]. Với tính đa dạng cao ở cấp
độ loài, quần thể và hệ sinh thái cùng sự phân hóa sâu sắc của điều kiện địa lý và
sinh thái phát sinh làm cho diễn thế thảm thực vật rừng Việt Nam trải qua nhiều giai
đoạn với sự phân hóa phức tạp về cấu trúc và thành phần loài [6, 9].
Dưới tác động của các yếu tố nhân sinh, trong đó có khai thác rừng ở quy mô
công nghiệp, chiến tranh hóa học đã và đang tạo nên chuỗi diễn thế thứ sinh nhân
tác rất đặc trưng cho thảm thực vật rừng nhiệt đới Việt Nam. Do nhu cầu khai thác
tài nguyên, sử dụng lãnh thổ, những tác động nhân sinh lên thảm thực vật tự nhiên ở
nước ta ngày càng mạnh mẽ với quy mô và cường độ không ngừng tăng đã làm cho
quá trình hình thành và phát triển của chúng có đặc điểm thay đổi mạnh mẽ, thậm
chí khác rất nhiều so với quy luật tự nhiên vốn có của chúng [2]. Những tác động
của con người nhiều khi quyết định đến sự biến đổi, xu hướng quá trình diễn thế của
thực vật trên những quy mô, không gian khác nhau [5, 12].
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về diễn thế thứ sinh của thảm thực vật
nhiệt đới dưới tác động tự nhiên, nhân sinh; làm rõ đặc điểm, cơ chế và xu hướng
biến đổi của chúng trong chuỗi diễn thế sau khai thác, phá hủy rừng ở các quy mô
khác nhau, bao gồm chiến tranh hóa học do Mỹ thực hiện ở miền Trung Việt Nam;
phân tích các hợp phần, yếu tố tự nhiên - nhân sinh ảnh hưởng đến diễn thế thảm
thực vật trong quá khứ, hiện tại và triển vọng trong tương lai.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm diễn thế thứ sinh thảm thực vật nhiệt đới gió mùa miền Trung Việt Nam
ây non mà sau này sẽ kiến tạo thành tầng tán rừng. Đến cuối mùa mưa đầu tiên sau khi rừng bị chặt hạ, tại khu vực khai thác xuất hiện thực vật tiên phong [6]. Hạt của các cây này do gió hoặc chim mang tới. Trong điều kiện bị mất tấm chắn - tán cây, và lớp phủ - thảm lá rụng, dưới tác động của ánh sáng trực xạ và mưa rào trong mùa mưa, tính chất lý-hoá của đất mặt bị tác động và thay đổi (đất bị nung đốt, nén chặt). Quá trình xói mòn bề mặt tăng mạnh, thực vật hòa thảo chiếm ưu thế trên những khu vực trước kia từng là rừng. Giai đoạn diễn thế của trảng cỏ cây bụi tồn tại nhiều chục năm và còn tiếp diễn trên những khu vực rộng lớn (hình 2). Ở đó, việc phục hồi thảm thực vật rừng khó diễn ra do sự duy trì của các yếu tố “tới hạn”, trong đó có nhiệt độ, độ ẩm, mầm giống và tác động tiêu cực của con người [4, 6]. Hình 2. Chuỗi diễn thế thực vật dưới tác động của chiến tranh hóa học và khai thác rừng quy mô công nghiệp [4, 6] Trong đó: 1- rừng cây gỗ thân cao; 2- khai thác quy mô công nghiệp; 3- rừng bị phun rải nhiều lần chất diệt cỏ; 4- sử dụng bom cháy na pan; 5- sự phát triển quần xã thực vật với ưu thế là các loài cỏ tiên phong. Việc sử dụng chất diệt cỏ làm cho cây gỗ rừng và dây leo bị rụng lá. Tuy vậy, sau khi rừng bị phun rải lần đầu thì phần lớn cây gỗ rừng đều có khả năng phát triển lá mới. Nếu rừng bị phun rải nhiều lần sẽ dẫn đến cây gỗ và các loài thực vật khác bị chết và sau đó bom napal được sử dụng để huỷ diệt hoàn toàn thảm thực vật rừng [3, 6, 12]. Trên những khu vực bị mất đi thảm thực vật rừng, hạt của các loài thực vật tiên phong được gió đem tới, mà chủ yếu là các loài cỏ với đại diện của chi Imperata, Pennisetum, Themeda (Poaceae) và Eupatorium (Asteraceae). Sau một mùa mưa, các loài cỏ này phát triển đạt chiều cao tới 2m, hình thành các bụi cỏ, ra hoa và cho hạt rất nhiều. Như vậy, sau thời gian ngắn, các khu vực trống đã bị những loài cỏ thân cứng xâm chiếm, tạo chuỗi diễn thế rừng cây gỗ thân cao → trảng cỏ, cây bụi. Trong điều kiện tự nhiên, những loài cây gỗ tạo rừng phục hồi được trên đất dốc bằng diễn thế “màn rừng - cửa sổ”. Cây rừng không có cơ chế tự phát tán hạt ra cự ly xa. Hạt và quả của một số loài cây chỉ có thể phát tán đi xa nhờ gió. Đối với nhiều loài chim - chủ thể gieo hạt thì chúng cần phải có chỗ đậu, nhưng ở trảng cỏ thì không có điều kiện này. Tuy vậy, điều cơ bản là cây gỗ rừng nhiệt đới không có khả năng phát triển trên những khu vực trống là do đặc điểm sinh học của chúng. 30 Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 14, 11 - 2017 Nghiên cứu khoa học công nghệ Cho đến nay, sau gần 50 năm chiến tranh hóa học đã đi qua, các trảng cỏ trên vùng Gio Linh không hề bị thay đổi theo hướng thay thế bằng cây rừng hoặc cây bụi. Tổng diện tích dạng savan trên nền đất bị bào mòn vào khoảng 120 km2. Tại vùng Sa Thầy - Ngọc Hồi, kết quả nghiên cứu cho thấy, trảng cỏ cây bụi, rừng hỗn giao gỗ - tre nứa trên địa hình tương đối bằng dọc quốc lộ 14C là kết quả trong chuỗi diễn thế sau chiến tranh hóa học - một dạng diễn thế thứ sinh rất đặc thù không chỉ riêng ở Tây Nguyên Việt Nam mà trên phạm vi toàn cầu: Diễn thế rừng ưu thế cây họ Dầu nhiệt đới gió mùa cao nguyên dưới tác động của chiến tranh hóa học. Chất diệt cỏ đã phá hủy gần như hoàn toàn thảm thực vật rừng tự nhiên với ưu thế cây họ Dầu - kiểu thảm hiện nay còn sót lại một số khoảnh hoặc thành phần cây họ Dầu trong rừng hỗn giao gỗ - tre nứa, rừng hơi khô nửa rụng lá. Sau thời gian bị phun chất diệt cỏ và bom cháy napal (khoảng 50 năm), trảng cỏ được hình thành và duy trì nhiều chục năm sau. Hình 3. Chuỗi diễn thế thực vật thung lũng Sa Thầy sau chiến tranh hóa học Diễn thế của thực vật chuyển theo các hướng khác nhau: Hướng thứ nhất là diễn thế trong các thung lũng ven sông, suối, sau khoảng 25÷30 năm đã dần hình thành thực vật nhiệt đới hơi khô nửa rụng lá với ưu thế của các loài thực vật ưa khô, chịu hạn của họ Lythraceae, Dipterocarpacea, Myrtaceae (hình 3a). Hướng thứ hai hình thành các thảm cây nông nghiệp, rừng nhân sinh với sự biến đổi mạnh mẽ của thảm thực vật theo thời vụ (cây nông nghiệp hàng năm), hoặc chu kỳ 5÷10 năm đối với cây nguyên liệu, cây hương liệu, hoặc cây công nghiệp lâu năm với chu kỳ dài hơn (hình 3b); Hướng thứ ba là việc tiếp tục của trảng cỏ, cây bụi thường bị cháy vào mùa khô do bị đốt (chủ ý hoặc vô ý) (hình 3c) giống như nhiều khu vực khác ở miền Nam như ở Gio Linh, Cam Lộ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 14, 11 - 2017 31 Nghiên cứu khoa học công nghệ Kết quả quan trắc cho thấy trong tháng 7 - tháng nóng nhất trong mùa mưa - nhiệt độ ban ngày dưới tán rừng (ở độ cao 120cm) là 33oC, ở trảng cỏ là 43oC. Nhiệt độ cao nhất trên mặt đất dưới tán rừng và ngoài trảng cỏ tương ứng là 28oC và 36oC. Nhiệt độ cao nhất của đất ở độ sâu 5cm dưới tán rừng và ngoài trảng cỏ tương ứng là 27oC và 32oC. Độ ẩm không khí dưới tán rừng dao động trong khoảng 85%÷100%, còn ngoài trảng cỏ 55%÷95%. Như vậy, sự xuất hiện những khu vực trống không còn rừng dẫn đến thay đổi chế độ khí hậu, chế độ thuỷ văn và tính chất lý - hoá của đất trong điều kiện bị xói mòn bề mặt. 3.2. Diễn thế thứ sinh “đới chuyển tiếp” Khác với các loài cây gỗ rừng, các loài cây thuộc nhóm tiên phong phát triển rất tốt trong điều kiện nhiệt độ, ánh sang gần với điều kiện ở khu vực trống trải. Kết quả nghiên cứu ở huyện Gio Linh, Cam Lộ tỉnh Quảng Trị; huyện Sa Thầy, Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum và nhiều khu vực khác ở Việt Nam cho thấy, những loài thực vật tiên phong xuất hiện đồng thời ở những khu vực tương tự “cửa sổ” rừng và khu vực trống trải do khai thác quy mô công nghiệp, hình thành sau chiến tranh hóa học. Kết quả thống kê cho thấy, đó là loài Đơn châu chấu Aralia armata thuộc họ Araliaceae; Sòi tía Sapium discolor, Sòi trắng S. sebiferum; 14 loài thuộc chi Macaranga, trong đó ở miền Nam có loài đặc trưng Ba soi lông sao M. trichocarpa và 30 loài thuộc chi Mallotus thuộc họ Euphorbiaceae; Màng tang Litsea cubeba thuộc họ Lauraceae; 14 loài thuộc chi Melastoma, trong đó ở miền Nam có loài Muôi an bích M. osbeckoides thuộc họ Melastomataceae; Hu đay lông Trema orientalis, Hu đay T. velutina thuộc họ Ulmaceae; Gáo tàu Anthocephalus chinensis thuộc họ Rubiaceae; Ba chạc Euodia lepta, Cóc hôi Zanthoxylum rhetsa thuộc họ Rutaceae; Khổ sâm nam Brucea javanica thuộc họ Simaroubaceae và nhiều loài thuộc chi Callicarpa, họ Verbenaceae. Hình 4. Diễn thế thực vật “đới chuyển tiếp” [6] 32 Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 14, 11 - 2017 Nghiên cứu khoa học công nghệ Các loài tiên phong có vòng đời từ 10 đến 15 năm. Hàng năm, các cây tiên phong đều ra hoa và kết quả. Tuy vậy, không thấy những cây con tái sinh dưới tán cây mẹ. Trên những khu vực có sự đan xen rừng cây gỗ thân cao và trảng cỏ, vốn phổ biến ở tất cả các đới và đai độ cao ở Việt Nam, cây gỗ tiên phong mọc bao bọc lấy rừng cây thân cao, hình thành một dải đệm được gọi là “đới chuyển tiếp” giữa rừng nguyên sinh và các quần xã cỏ dạng savan (hình 4). Chiều rộng của đới chuyển tiếp dao động phổ biến trong khoảng 3 đến 7 m. Các cây tiên phong ở đới chuyển tiếp với tốc độ sinh trưởng nhanh, có vai trò quan trọng là bảo vệ bề mặt của đất tránh bị bức xạ mặt trời và tránh bị nước mưa xói mòn, góp phần khôi phục những tham số vi khí hậu ở sát mặt đất (lớp không khí từ 0 đến 20 cm). Nghiên cứu tại huyện Gio Linh, Sa Thầy cho thấy, dưới tán những cây gỗ tiên phong, theo thời gian (3÷4 năm), mầm của những loài cây phát tán từ phía rừng phát triển tốt. Trong đới chuyển tiếp, đã phát hiện mầm và cây non của các loài Thành ngạnh đẹp Cratoxylum formosanum (Guttiferae), Kơ nia Irvingia malayana (Irvingiaceae), Sao đen Hopea odorata, Sến cát Shorea roxburghii (Ditperocarpaceae) và Cám Parinari annamense (Chrysobalanaceae). Quá trình này diễn ra từ khi những cành thấp nhất của tán cây tiên phong đạt tới độ cao 1,5÷2 m cách mặt đất. Với sự lớn lên của các loài cây gỗ rừng, tán che do cây tiên phong tạo ra trong đới chuyển tiếp bị chia cắt. Dải bóng râm do cây gỗ rừng tạo ra cũng như các cây trong đới chuyển tiếp dần đẩy lui ranh giới của quần xã cỏ và tạo điều kiện mở rộng diện tích. Sự biến đổi dần dần điều kiện vi khí hậu dưới tán cây theo hướng tiếp cận với các tham số vi khí hậu rừng, cùng sự xuất hiện gần khu vực trảng cỏ những cây đến tuổi trưởng thành thuộc lớp trên cùng của tán rừng, ra hoa kết quả làm thúc đẩy quá trình khôi phục rừng cây nhiệt đới bản địa. Quá trình diễn thế phục hồi này tạo nên cấu trúc và thành phần gần như trước đây trong thời gian dài, khoảng từ 50 đến 80 năm [6, 12]. Trong điều kiện thực tại mối quan hệ “con người - rừng nhiệt đới”, quá trình diễn thế như vậy đã diễn ra ở nhiều nơi với tốc độ rất chậm, song đã và sẽ không diễn ra ở vùng gò đồi huyện Gio Linh vì con người không ngừng gây ra áp lực lên thảm thực vật thông qua việc chặt hạ cây gỗ thân cao và tàn phá các thế hệ cây con. 4. KẾT LUẬN 1. Diễn thế thứ sinh thảm thực vật nhiệt đới gió mùa miền Trung Việt Nam chịu sự chi phối của các yếu tố tự nhiên và nhân sinh, trong đó yếu tố nhân sinh đóng vai trò chủ đạo. Đây là nguyên nhân làm cho diễn thế có tính phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn với chu kỳ và đặc điểm rất khác nhau. 2. Diễn thế “của sổ” rừng và khu vực tương tự cửa sổ rừng diễn ra với đặc điểm của quá trình phục hồi cấu trúc và thành phần loài bản địa, trong đó diễn thế cửa sổ rừng không trải qua giai đoạn phục hồi bởi các loài cây gỗ tiên phong nên chu kỳ thường ngắn hơn so với những khu vực khai thác diện tích nhỏ, tương tự cửa sổ rừng. Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 14, 11 - 2017 33 Nghiên cứu khoa học công nghệ 3. Diễn thế thứ sinh thảm thực vật sau khai thác, phá hủy rừng ở quy mô công nghiệp và chiến tranh hóa học diễn ra phức tạp, nhiều yếu tố sinh thái bị biến đổi, phá hủy, hình thành nên các yếu tố “tới hạn” như nhiệt độ, độ ẩm. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho nhiều diện tích rừng bị phá hủy ở nước ta đến nay không có khả năng phục hồi tự nhiên thảm thực vật rừng, thay vào đó là trảng cỏ cây bụi, rừng trồng hoặc cây nông nghiệp. 4. Diễn thế “đới chuyển tiếp” xuất hiện tại khu vực tiếp giáp giữa trảng cỏ với rừng cây gỗ thân cao. Tại đây hình thành thảm cây gỗ với các tham số khí hậu - thổ nhưỡng được cải thiện, là cơ sở để phục hồi tự nhiên thảm thực vật rừng theo xu thế “lấn dần”. Tuy vậy, nhiều khu vực, trong đó điển hình là huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, sự phục hồi, mở rộng thảm thực vật rừng cây bản địa hầu như không diễn ra do những tác động tiêu cực, thường xuyên từ phía con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Tập 1, 2, 3, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh,1999. 2. Nguyễn Đăng Hội, Nguyễn Cao Huần, Đăng Văn Bào, Biến đổi và diễn thế nhân tác của cảnh quan nhân sinh lãnh thổ Kon Tum, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Địa lý toàn quốc lần II, Hà Nội, 2006, tr 301- 307. 3. Nguyễn Đăng Hội, Cảnh quan nương rẫy và việc sử dụng hợp lý chúng trên lãnh thổ Kon Tum, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007, 5:133-137. 4. Nguyễn Đăng Hội, Kuznetsov A.N., Kuznetsova S.P., Hiện trạng và diễn thế thực vật trong các hệ sinh thái nhân sinh huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị hình thành sau tác động của chất diệt cỏ trong chiến tranh, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Sinh thái và TNSV toàn quốc lần V, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 2013, tr.1363-1371. 5. Nguyễn Đăng Hội, Nguyễn Cao Huần, Ngô Trung Dũng, Diễn thế nhân sinh cảnh quan vùng ngã ba Đông Dương các huyện Ngọc Hồi, Sa Thầy và Ia H’Drai, tỉnh Kon Tum, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Địa lý toàn quốc lần 9, Nxb. Khoa học tự nhiên và công nghệ, 2016, Hà Nội, tr.11-20. 6. Kuznetsov A.N., Kuznetsova S.P., Nguyễn Đăng Hội, Biến động quần xã thực vật rừng nhiệt đới qua ví dụ rừng cây gỗ thân cao ở Việt Nam, Tạp chí Sinh học, 2011, 1:37-45. 7. Trần Văn Thụy, Đoàn Hoàng Giang, Nguyễn Anh Đức, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Minh Quốc, Nghiên cứu diễn thế thảm thực vật vùng Mã Đà (tỉnh Bình Phước, Đồng Nai) và định hướng phục hồi, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 2016, 1S:377-383. 8. Bethel J.S., Turnbull, American forester, 1975, 81(1):26-30. 9. Kuznetsov, A.N., Preliminary results of the botanical research - Vegetation Types of the Cat Loc area, Results of Complex Zoologico-Botanical expedition of the Cat Loc area, South Vietnam, Report. WWF., 2002, Hanoi, p.9-25. 10. Manuel R. Guariguata, Rebecca Ostertag, Neotropical secondary forest succession: changes in structural and functional characteristics, Journal of Forest Ecology and management, 2001, 148:185-206. 34 Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 14, 11 - 2017 Nghiên cứu khoa học công nghệ 11. Westing A.N., Ecological consequences of the Second Indochina War, Sipri Stockholm, Sweden, 1976, 119 p. 12. Кузнецов А.Н., Тропический диптерокарповый лес на примере сомкнутого высокоствольного влажного равнинного диптерокарпового массива Ма Да, южный Вьетнам, М.: ГЕОС, 2003, 140 с. 13. Пендлтон Р.Л., География Таиланда, М.: Прогресс, 1996, c.10-15. 14. Разумовский С.М., Избранные труды. М.: КМК, 1999, 560 с. 15. Тахтаджян А.Л. Флористические области земли. Л. Наука, 1978, 247 с. SUMMARY SOME CHARACTERISTICS IN SECONDARY SUCCESSION OF MONSOON TROPICAL VEGETATION IN CENTRAL VIETNAM The secondary succession is a basic feature of the process of originating and developing the monsoon tropical vegetation in Central Vietnam. The high diversity of forest trees and also high variety of ecological conditions make the secondary succession of vegetation have undergone several stages with complexity in structure and species composition. Succession in forest gaps takes place without participation of pioneer plants. Secondary successions in forest territories were devastated by logging and chemical effects during the war, as well as changes in environment factors, thus appearing the “critical” ecological factors with complicated features. There are the main reasons, which make it impossible to restore many of these destroyed forest areas in Central Vietnam up to natural forest vegetation. Succession in "buffer zone" appears between the grassland area and tall forest trees, forming a band with wide of 3÷7 m. The formation of medium trees contributed to the improvement in climatic and soil parameters, that is a basis of natural regeneration of forest vegetation following a "gradual encroach" trend. However, the restoration and expansion of native forest vegetation hardly occurs in many areas because of the frequent negative effects of human. Keywords: Secondary succession, Gio Linh, Sa Thay, pioneer plants, restore. Nhận bài ngày 24 tháng 8 năm 2017 Hoàn thiện ngày 18 tháng 10 năm 2017 Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 14, 11 - 2017 35
File đính kèm:
- mot_so_dac_diem_dien_the_thu_sinh_tham_thuc_vat_nhiet_doi_gi.pdf