Một số biến đổi trong lễ cúng Thần Lúa của người Chơ-ro
Người Chơ-ro là một dân tộc người thiểu số tại chỗ, cư trú lâu đời và tập trung ở
vùng Đông Nam Bộ. Người Chơ-ro sinh sống chủ yếu bằng hoạt động kinh tế
nương rẫy và gắn với tín ngưỡng đa thần. Tìm hiểu biến đổi trong tín niệm và
thực hành nghi lễ tín ngưỡng Thần Lúa của người Chơ-ro giúp hiểu thêm giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc này, trên cơ sở đó đề xuất việc bảo t n và
phát triển bền vững văn hóa dân tộc Chơ-ro hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Một số biến đổi trong lễ cúng Thần Lúa của người Chơ-ro", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số biến đổi trong lễ cúng Thần Lúa của người Chơ-ro
ừng thời gian khác nhau, tránh trùng lặp, để mọi ngƣời trong dòng họ, xóm giềng đều đến chung vui với gia đình. Theo tập quán truyền thống, lễ cúng Thần lúa đƣợc ngƣời Chơ-ro thực hiện ngay tại rẫy, ruộng. Tại khu rẫy trồng lúa, khi thu hoạch mùa màng, ngƣời Chơ-ro để lại một vạt lúa trĩu hạt. Những bông lúa tốt đƣợc chọn bó lại bằng tranh, rơm, lá chuối và rào bốn bên bằng gai tre, gai cây cối để bảo vệ. Ngƣời Chơ-ro quan niệm hồn lúa rẫy trú ngụ tại vùng lúa tốt và chờ đến khi tổ chức lễ Yang Va thì rƣớc về. Nghi thức rƣớc hồn lúa là nghi thức đầu tiên trong lễ cúng Yang Va. 3.1. Nghi thức và lễ vật cúng tế Rước hồn lúa: Bắt đầu cho buổi lễ cúng Yang lúa là nghi thức rƣớc hồn lúa. Buổi sáng của ngày bắt đầu cúng, lúc mặt trời lên, ngƣời nhà thực hiện việc đi rƣớc hồn lúa. Ngƣời gọi Yang khấn trƣớc bàn thờ xin cho ngƣời nhà đi lên rẫy. Ngƣời phụ nữ chính trong nhà và ngƣời thân (thƣờng là ba ngƣời) đem theo liềm, chà gạc, bầu khô (đựng nƣớc) để trong gùi mang đi. Họ đi đến rẫy lúa (rẫy lúa thƣờng khá xa nhà). Đến nơi, ngƣời phụ nữ chính thực hiện nghi thức khấn mời hồn lúa từ rẫy về nhà dự lễ cúng, cầu xin hồn lúa thuận ý và phù hộ cho mọi sự diễn ra tốt lành. Khấn xong, ngƣời phụ nữ lấy nƣớc trong trái bầu khô rải vào chùm lúa thể hiện sự tẩy sạch và tƣơi tắn cho chùm lúa chọn. Những ngƣời đi theo dỡ bỏ những rào che, mở chùm lúa khỏi những dây bó, lá chuối và lấy liềm gặt lấy, bó lại, bỏ vào gùi. Tiếp theo, những ngƣời đi cùng tìm đến một phần đất khác để chặt hai ngọn mía và hai ngọn chuối con (có khi không có mía nhƣng bắt buộc phải có đọt chuối non). Những cây mía và cây chuối cũng đƣợc chọn sẵn trƣớc với điều kiện lá xanh, đọt thẳng, thƣờng nảy nở từ những bụi gốc lớn. Trƣớc khi chặt đọt chuối và cây mía ngƣời TRƢƠNG QUANG ĐẠT – MỘT SỐ BIẾN ĐỔI TRONG LỄ CÚNG 77 phụ nữ đọc lời khấn và xin đƣợc chặt chuối non về làm lễ; bên cạnh đó, họ đọc lời khấn cho con cái trong nhà đƣợc an, đƣợc phúc, nhanh lớn nhƣ đọt chuối. Tất cả những đồ vật đƣợc bỏ vào gùi, mang về trình Yang nhà. Những vật lấy từ rẫy có ý nghĩa quan trọng trong quan niệm của ngƣời Chơ-ro. Chùm bông lúa chọn là hồn lúa của mùa màng, thể hiện lòng biết ơn đối với thần linh trong mỗi kỳ làm rẫy. Cái tốt nhất, đẹp nhất dành cho ngày cúng tế Yang Va. Hai đọt chuối non và cây mía thể hiện sức sống, sự sinh sôi nảy nở của con cái nhƣ lời khấn và cho các loại cây khác mà ngƣời Chơ-ro trồng tỉa trên nƣơng rẫy. Con số hai (chẵn) của lễ vật rẫy lúa trong quan niệm của ngƣời Chơ-ro biểu hiện sự hoàn thiện, có đôi, có bạn cho cả ngƣời chủ rẫy, chủ gia đình, ngƣời gọi Yang. Khi những ngƣời đi rƣớc hồn lúa về thì họ dừng lại ngay tại gốc cây nêu. Tại gốc cây nêu có buộc sẵn các con vật hiến tế là heo và gà, ngƣời phụ nữ chính đặt gùi xuống (bên trong có chùm bông lúa, hai cây mía, hai cây chuối) nhƣ trình báo cho thần linh, tổ tiên chứng giám. Trình Yang nhà và làm vật hiến tế: Khi những ngƣời đi rƣớc hồn lúa về và trình lễ vật tại gốc cây nêu thì ngƣời gọi Yang ngồi chờ sẵn tại cửa nhà sàn. Ngƣời phụ nữ mang gùi lên cầu thang và giao lại những vật mang từ rẫy cho ngƣời gọi Yang. Ngƣời gọi Yang đem các vật từ rẫy vào trƣớc bàn thờ. Các chùm bông lúa đặt lên tầng thứ hai của bàn thờ. Sau đó, ngƣời gọi Yang tách lấy một phần của chùm bông lúa ra từng bông gắn lên thân cây Nhang mùa cúng trƣớc, đọt chuối non gắn hai bên cây Nhang. Vừa sắp xếp lễ vật, ngƣời gọi Yang vừa đọc lời khấn với sự cung kính. Một ngƣời phụ cúng bắt con gà từ cây nêu đƣa cho ngƣời gọi Yang. Ngƣời gọi Yang cầm con gà cúng ngồi trƣớc bàn thờ Nhang đƣa lên vái ba lần, miệng đọc lời khấn xin làm thịt những con vật hiến tế. Những ngƣời phụ cúng đem cây Nhang và con gà xuống phía dƣới nhà sàn làm thịt. Một ngƣời cắt cổ gà lấy huyết bôi đều vào các chùm tia của cây Nhang. Tiếp theo, những ngƣời phụ cúng bắt heo từ gốc cây nêu làm thịt, huyết heo đƣợc bôi đều lên cây Nhang mà trƣớc đó đã bôi huyết gà. Cây Nhang đó đƣợc mang tới nhà sàn đƣa cho ngƣời gọi Yang. Ngƣời gọi Yang cung kính đón nhận và đọc lời khấn và gắn vào phía dƣới cùng bàn thờ Nhang. Trong thời gian trình các lễ vật từ rẫy và trình cây Nhang đã đƣợc bôi huyết thì những ngƣời phụ nữ Chơ-ro liên tục đánh giàn chiên trên nhà sàn để tấu những làn điệu nhộn nhịp mừng lễ cúng. Phía dƣới nhà sàn, ngay từ buổi sáng diễn ra lễ cúng, những ngƣời tham gia lễ hội làm các thứ thức ăn nhƣ bánh dày, cơm lam, củ nần, củ mì, củ chụp, đọt mây để đãi khách khi lễ cúng hoàn tất. Nếu lƣợng thức ăn nhiều thì họ chuẩn bị từ đêm trƣớc lễ hội. Bánh dày đƣợc làm từ sáng sớm. Ngƣời Chơ-ro rang mè đen, sau đó TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020 78 cho vào xôi nếp đem đi giã. Để thực hiện một ổ bánh dày thì ba ngƣời giã và một ngƣời phụ trở bánh trong cối. Khi xôi và mè đƣợc giã nhuyễn thì họ cầm bánh đập vào cối cho có độ dẻo chặt. Bánh mềm dẻo với màu đen, trắng chấm li ti đƣợc tạo dáng hình tròn để trên lá chuối rừng. Nếp, củ nần, củ mì, củ chụp, đọt mây đƣợc ngƣời Chơ-ro cho vào ống tre lồ ô với một lƣợng nƣớc vừa đủ để nấu. Tất cả các ống tre đƣợc bịt chặt lại bằng lá chuối. Một bếp lửa dài đƣợc đốt lên và có một giá đỡ ngang để giữ những ống tre. Phải canh độ lửa để những ống tre đƣợc đốt đều. Lá bếp đƣợc quấn trong lớp lá chuối, kẹp vào thanh tre để nƣớng. Thịt heo, thịt gà đƣợc xâu bằng các xiên tre vót nhọn để nƣớng. Các thức ăn làm đƣợc bày sẵn theo thứ tự trên các sàn tre, cây đƣợc làm sẵn. Nghi thức cúng Yang nhi: Lễ cúng Yang thƣờng đƣợc bắt đầu vào buổi trƣa. Những ngƣời phụ cúng bài trí các lễ vật trên bàn thờ Nhang. Chén vỏ cây chùm hum đƣợc chuyển từ tầng trên cùng xuống tầng thứ hai của bàn thờ để xông hƣơng, hai cây đèn sáp ong đƣợc đốt lên, bên cạnh là bánh dày, cơm lam, củ nần, củ mì, đọt mây đã đƣợc nấu chín. Ché rƣợu cần đƣợc khai miệng, đã đổ nƣớc vào và cắm cần hút. Bốn cần hút nghiêng ra bốn hƣớng và 1 cần chính (ngắn) ở giữa và cái cò bắc ngang miệng ché. Từ bốn cần hút bốn bên đƣợc buộc nối vòng những sợi dây chỉ đều nhau. Có hai sợi dây chỉ nối từ hai ống hút của ché rƣợu cần lên trên trần nhà - nơi để những bông lúa, cây nhang của mùa cúng trƣớc. Trên những sợi dây đƣợc kết những bông gòn theo từng nấc tƣợng trƣng cho cái thang để thần linh đến dự hƣởng rƣợu cần của mùa lúa đã thu hoạch. Ngƣời phụ cúng nối vào cần hút ngắn chính giữa một đoạn dây ống nhựa để lấy ra một chai nƣớc rƣợu đầu tiên. Thịt của các con vật hiến tế đƣợc xếp lên bàn thờ, gồm: một đùi heo phía chân sau, giữ nguyên đuôi; một nửa con gà nhƣng giữ nguyên phần đầu và đĩa đựng một số đồ lòng của con vật nhƣ gan, cật, một ít thịt chặt rời. Các phần thịt để tƣơi. Ngƣời gọi Yang bày lễ vật phía dƣới bàn thờ Nhang cùng với một ổ bánh dày và các loại củ nấu chín (nần, mì, chụp). Kế tiếp, ngƣời phụ cúng đem đĩa thịt ra xâu vào hai xiên tre (xâu riêng thịt heo và thịt gà). Ngƣời gọi Yang ngồi trƣớc ché rƣợu cần, mắt hƣớng về bàn thờ Nhang đọc lời khấn. Những ngƣời phụ cúng đứng phía sau. Khi khấn xong, ngƣời gọi Yang đứng lên đi về phía bàn thờ vừa khấn với nội dung cầu an cầu phúc vừa lấy mâm lễ vật nhƣ dâng lên mời thần linh. Ngƣời gọi Yang lấy một xiên thịt gà từ mâm lễ vật cắm vào ổ bánh dày trên tầng hai của bàn thờ. Mâm lễ vật gồm thịt gà, thịt heo (phần thịt gà: nửa con gà - phần nguyên cái đầu; phần thịt heo: đùi sau và nguyên cái đuôi); ổ bánh dày; các loại củ nƣớng - luộc chín; xiên lòng heo và TRƢƠNG QUANG ĐẠT – MỘT SỐ BIẾN ĐỔI TRONG LỄ CÚNG 79 đặc biệt là đầu heo; chai rƣợu lấy từ ché rƣợu cần; chùm bông lúa đƣợc những ngƣời phụ cúng mang đi theo ngƣời gọi Yang. Ngƣời gọi Yang tay cầm cây Nhang có bôi huyết vật tế từ bàn thờ đi đến kho lúa. Nghi thức cúng Yang Va tại kho lúa: Đến kho lúa, chỉ một ngƣời gọi Yang đƣợc trèo lên trong kho. Các lễ vật và một chén vỏ chùm hum khác đƣợc những ngƣời phụ giúp đứng phía dƣới đƣa lên. Khi bƣớc vào trong kho, ngƣời gọi Yang khấn lâm râm với nội dung trình báo cho Yang Va biết gia đình tổ chức lễ cúng. Ngƣời gọi Yang cắm cây Nhang (dáng đứng thẳng) vào giỏ đựng lúa. Chùm lúa dắt ngang lên cây đòn dông của nhà kho trên ngọn Nhang. Trên giỏ cây Nhang để chén vỏ cây chùm hum hun khói xông nghi ngút. Dƣới gốc cây Nhang trong giỏ lúa đặt chai rƣợu. Mâm lễ vật (thịt và bánh) đƣợc bày trên sàn kho. Ngƣời gọi Yang ngồi xếp bằng, mắt hƣớng lên chùm lúa và cây Nhang khấn, trƣớc tiên là cầu Yang Va, sau là cầu phúc cầu an. Nội dung có thể tóm lƣợc nhƣ sau: “Cầu thần linh, tổ tiên về đây chứng giám. Hôm nay, gia đình tôi làm lễ cúng Yang Va. Tôi đã trình qua Yang Nhi. Nay tôi đem lễ vật đên cúng và cầu khấn Yang Va tại kho lúa. Gia đình tôi biết ơn Yang Va đã giúp đỡ mùa hái gặt đã qua. Cầu xin Yang Va luôn thương xót gia đình tôi, phù hộ cho mùa màng, cây cối, nương rẫy của chúng tôi tr ng mau xanh mau lớn, có mưa có gió thuận hòa, không bị thú rừng phá phách, dịch hại phá hủy. Lúa chúng tôi tr ng cho nhiều hạt, thu về chất đầy kho để nuôi mạng gia đình. Xin thần linh, tổ tiên chứng giám cho lòng thành của gia đình chúng tôi. Gia đình chúng tôi luôn giữ tấm lòng thành, năm nào cũng tổ chức cúng Yang, tổ tiên. Xin thần linh, tổ tiên nghe lời khấn và phù hộ chúng tôi”. Đọc lời khấn xong, ngƣời gọi Yang vái lạy ba lần và đứng lên quay trở xuống đi về nhà sàn (lễ vật để lại trên kho lúa). Trƣớc đây, mâm lễ vật để tại kho lúa ba ngày ba đêm, hiện nay, chỉ để tại khoảng một giờ đồng hồ sau khi cúng. Sau đó, những ngƣời phụ cúng đem xuống, phần thịt nấu chín, bánh trái đem lên nhà sàn đãi khách. Cây Nhang vài ngày sau đƣợc ngƣời gọi Yang đem lên dắt trên mái nhà trƣớc bàn thờ Nhang trên nhà sàn. Rƣợu cần để uống và sử dụng trong lễ tiết, lễ hội; là lễ vật dâng lên thần linh và phƣơng thức bày tỏ lòng mến khách. Rƣợu cần chế biến từ gạo nấu thành cơm, trộn thêm trấu bổi và men rƣợu làm từ lá, vỏ và rễ một số loại cây rừng (lá cây Gàng, lá cây Vlân, vỏ cây Ktờram). Theo già làng Năm Nổi (ở ấp Lý Lịch), có đến 37 loại lá, vỏ, rễ cây để làm men rƣợu cần. Nguyên liệu chế biến rƣợu cần đƣợc cho vào ché sành, ủ trong một vài tháng. Khi uống rƣợu cần thì đổ nƣớc vào ché, hút bằng cần (làm từ ống trúc nhỏ) (Lâm Nhân, 2018). 3.2. Phần hội Khi ngƣời gọi Yang trở về lại nhà sàn và bắt đầu cho buổi sinh hoạt cộng đồng sau khi các nghi thức cúng hoàn TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020 80 tất. Những ngƣời đánh cồng chiêng tấu lên những bài mừng trong lễ hội. Những ngƣời phụ cúng dọn thức ăn đã chuẩn bị lên sàn nhà. Khách mời hầu hết là ngƣời lớn tuổi ngồi dự trên nhà sàn, những ngƣời nhỏ tuổi trong cộng đồng tham gia sinh hoạt dƣới sân. Thức ăn đƣợc bày sẵn trên bàn (bàn bằng cây/tre). Mọi ngƣời vừa ăn uống, vừa nói chuyện vui vẻ. Phía trên nhà sàn, ngƣời gọi Yang khai mở ché rƣợu cần mời khách. Ngƣời phụ nữ lớn tuổi nhất trong nhà uống trƣớc. Theo quan niệm của ngƣời Chơ-ro, đây là thái độ biết ơn công lao của ngƣời phụ nữ, do phụ nữ đã phải chịu nhiều cực khổ, từ việc nƣơng rẫy đến nội trợ. Lần lƣợt khách mời đều đƣợc mời lên uống rƣợu cần. Một ngƣời trong gia đình cầm cây đèn sáp ong trên bàn thờ đến cúi chào ngƣời khách nào thì ngƣời khách đó đƣợc lên uống rƣợu cần. Thƣờng thì chủ nhà mời mỗi khách một cò rƣợu (khoảng một chén). Ngƣời châm nƣớc ngồi sẵn bên ché rƣợu mỗi khi khách uống. Trong khi khách tham dự tiệc, uống rƣợu cần, thƣởng thức cồng chiêng, những ngƣời đánh cồng mang cồng vào vai, vừa đi vừa đánh chung quanh nhà sàn. Một số phụ nữ, trẻ em hát và múa những bài truyền thống của dân tộc. Tiếng đàn tre, khèn môi, kèn lúa đƣợc nhiều ngƣời khảy, thổi để cầu phúc, chúc lành cho nhau cho đến khi tiệc tan. Đêm xuống, ngƣời Chơ-ro đốt lửa trƣớc sân nhà, cùng nhau ca hát, nhảy múa. Những ngƣời đánh cồng vừa đi quanh đống lửa theo chiều ngƣợc kim đồng hồ, đánh tấu cồng theo vòng tròn từ ngoài vào cho đến sát gốc cây nêu. Giàn chiêng treo đƣợc những ngƣời phụ nữ đánh hòa nhịp theo điệu múa của các cô gái, và mọi ngƣời nhƣ say thêm không khí của lễ hội, không khí vui vẻ, nhộn nhịp với tiếng nhạc, tiếng kèn, lời ca, điệu múa. Lửa tàn (lúc nửa đêm) cũng là lúc Sa Yang Va kết thúc. 4. TẠM KẾT Sa Yang Va là một nét sinh hoạt văn hóa độc đáo, duy nhất của ngƣời Chơ-ro còn lƣu giữ. Lễ hội góp phần làm đa dạng di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng tộc ngƣời Chơ-ro ở Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng và miền Đông Nam Bộ nói chung. Hiện nay, do nhiều biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội, nƣơng rẫy không còn là sinh kế chính nên Sa Vang Ya trong nhiều gia đình ngƣời Chơ-ro bị mai một, không thực hiện hàng năm. Lễ hội Sa Yang Va là dịp ngƣời Chơ- ro ăn mừng mùa thu hoạch và chuẩn bị cho mùa vụ tới, qua đó thể hiện cách ứng xử của ngƣời Chơ-ro với thần linh, tổ tiên, môi trƣờng tự nhiên và cộng đồng mà theo họ có tác động sâu sa đến cuộc sống của mình và cộng đồng. Trong nhiều năm qua, lễ hội Sa Yang Va đƣợc tổ chức tại Khu phố 1, Phƣờng Hắc Dịch, thị xã Phú Mỹ đều đƣợc chính quyền và các ban ngành quan tâm, nhiều ngƣời dân địa phƣơng tham gia, ngày càng trở TRƢƠNG QUANG ĐẠT – MỘT SỐ BIẾN ĐỔI TRONG LỄ CÚNG 81 thành nét sinh hoạt văn hóa lành mạnh, tiêu biểu, góp một phần trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam tại địa phƣơng. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Lâm Nhân. 2018. “Dân tộc tại chỗ ở Đồng Nai”, https://www.dongnai.gov.vn/Pages/ newsdetail.aspx?NewsId=159547&CatId=112, truy cập ngày 25/10/2020. 2. Mai Phƣơng. 2018. “Lễ hội Sayangva của ngƣời Chơ Ro tại huyện Vĩnh Cửu”, truy cập ngày 25/10/2020. 3. Minh Thanh. 2019. “Lễ hội mừng lúa mới của ngƣời Châu Ro”, bariavungtau.com.vn/xa-hoi/201907/le-hoi-mung-lua-moi-cua-nguoi-chau-ro-865893/ind ex.htm, truy cập ngày 25/10/2020. 4. Nguyễn Xuân Thanh. 2006. “Vài nét khái quát về tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, trong Hội thảo quốc tế: Tôn giáo và pháp quyền ở Đông Nam Á, tháng 9/2006. Hà Nội. 5. Phan Thị Yến Tuyết. 2018. “Chuyển đổi tín ngƣỡng, tôn giáo trong các cộng đồng dân tộc thiểu số tại miền Đông Nam Bộ”. Tạp chí Khoa học Xã hội, số 2. 6. Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê. 2020. Đặc trưng cơ bản của 53 dân tộc thiểu số năm 2019. Hà Nội: Nxb. Thống kê. 7. Ủy ban Dân tộc. 2006. “Bức tranh văn hóa các dân tộc - Ngƣời Chơ ro”, cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=492, truy cập ngày 25/10/2020. 8. Ủy ban nhân dân phƣờng Hắc Dịch. 2020. “Danh sách các hộ đồng bào dân tộc Châu Ro trên địa bàn phƣờng Hắc Dịch”. Phƣờng Hắc Dịch, ngày 12/6/2020.
File đính kèm:
- mot_so_bien_doi_trong_le_cung_than_lua_cua_nguoi_cho_ro.pdf