Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam
Tóm tắt
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiếm toán là tính độc lập của kiểm toán viên
(KTV). Do đó, nhiều quốc gia đã ban hành các qui định về luân chuyển KTV. Tuy nhiên, qui định này
đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, quản lý cũng như các hội nghề nghiệp.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có
mối liên hệ giữa việc luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán tại các công ty niêm yết ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam
1 ΔREVt /At-1 + β2 PPEt / At-1 Trong đó: NDAt: Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh được năm t At-1: Tổng tài sản cuối năm t-1 ΔREVt: Biến động doanh thu thuần năm t PPEt: Nguyên giá của tài sản cố định hữu hình năm t Trong công thức trên tất cả các biến của phương trình đều chia cho At-1 (tài sản cuối năm t-1) để giảm thiểu rủi ro do phương sai không thuần nhất. α, β1, β2 là những tham số được tính bằng ước lượng bằng phương pháp bình phương bá nhất (OLS) của các hệ số a1, a2, a3 trong mô hình sau: TAt / At-1 = a0 + a1 1 / At-1 + a2 ΔREVt / At-1 + a3 PPEt / At-1 + εt Phần dư ε trong mô hình trên đại diện cho biến chưa thể nhận diện được, bao gồm cả biến dồn tích tự định (DAt) Sau khi ước lượng biến dồn tích không tự định (NDA), từ phương trình: DAt = TAt – NDAt Ta có: DAt / At-1 = TAt / At-1 – NDAt / At-1 Từ đó xác định biến kế toán dồn tích tự định như sau: DAt / At-1 = TAt / At-1 - a1 1 / At-1 - a2 ΔREVt / At-1 - a3 PPEt / At-1 Mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan and Sweeney (1995) Hạn chế của mô hình Jones (1991) là khi chọn REV làm biến nghiên cứu thì có thể doanh thu thuần cũng cũng bị tác động thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận không đúng niên độ và các khoản này có thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. Do đó, các nhà nghiên cứu sau này đưa thêm biến tăng giảm khoản phải thu khách hàng (ΔREC) vào phương trình nhằm loại bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn tích do sự tăng lên của tài khoản phải thu khách hàng trong kỳ. Qua đó, giá trị doanh thu thuần tăng thêm phản ánh chính xác hơn môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong năm đó. Dechow, Sloan and Sweeney (1995) đã cải tiến mô hình của Jones (1991) bằng cách bổ sung thêm sự thay đổi của tài khoản nợ phải thu vào mô hình (ΔREC). Mô hình Jones được cải tiến như sau: NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt - ΔRECt) / At-1 + β2 PPEt / At-1 Trong đó: ΔRECt là sự thay đổi trong tài khoản phải thu khách hàng. Dechow, Sloan and Sweeney (1995) cho rằng mô hình Jones cải tiến đã phát hiện ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận tốt hơn so với mô hình nguyên gốc của Jones. Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển đã kết luận rằng mô hình Jones và mô hình Jones cải tiến đã cho kết quả đáng tin cậy về biến dồn tích có thể điều chỉnh (Guay, Kothari and Watts, 1996). 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Mô hình nghiên cứu Xuất phát từ mô hình đo lường CLKT của Dechow, Sloan and Sweeney (1995): NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt - MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN 24 ΔRECt ) / At-1 + β2 PPEt / At-1 Từ phương trình trên, ta tính được DAit/At-1 = TAit/At-1 - NDAit/At-1 Khi tỉ số DAit/At-1 quá cao thể hiện các khoản DA trong lợi nhuận lớn và CLKT giảm xuống. Tuy nhiên, trên thực tế giá trị của DA của từng công ty có thể mang giá trị âm hoặc dương tùy thuộc vào hành vi của nhà quản lý trong kỳ muốn thổi phồng lợi nhuận (DA>0) hay giảm bớt lợi nhuận (DA<0). Do đó, nghiên cứu này sử dụng giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 làm biến phụ thuộc trong phương trình hồi quy để đại diện cho CLKT BCTC. Ký hiệu giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 là |DA| Ngoài ra, kế thừa các nghiên cứu trước đây về CLKT, tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT (Chen và cộng sự; Myers và các cộng sự; Siregar và cộng sự), nghiên cứu này sử dụng mô nghiên cứu sau để xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa CLKT BCTC (được đo lường bằng giá trị |DA|) và các biến độc lập có liên hệ với mức độ điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể mô hình nghiên cứu như sau: |DA| = α + β1TENURE + β2BIG4 + β3LEV + β4GROW + β5CFO + β6SIZE + ε Trong đó: |DA|: Chất lượng KT (được đo lường bằng mức độ điều chỉnh lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích) TENURE: Nhiệm kỳ KTV (được xác định bằng cách đếm số năm liên tiếp một KTV thực hiện công việc kiểm toán cho một công ty) BIG4: Biến giả (dummy variable) biến này sẽ mang giá trị bằng 1 nếu công ty kiểm toán là một trong các Big4, nếu không phải Big4 thì mang giá trị bằng 0. LEV: Tỷ lệ nợ của công ty (được xác định bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia cho tổng tài sản trong kỳ) GROW: Tốc độ tăng trưởng của công ty (được xác định bằng cách lấy tổng tài sản năm t trừ tổng tài sản năm t-1 và chia lại cho tổng tài sản năm t-1) CFO: Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty trong năm SIZE: Quy mô công ty (được xác định bằng cách lấy logarit của tổng tài sản doanh nghiệp) 3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu Với mục tiêu tính toán và ước tính DA cho từng công ty, nghiên cứu đã thực hiện việc lấy số liệu kế toán từ BCTC năm và thu thập thông tin về KTV phụ trách KT trên BCKT kèm theo của các công ty hiện đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong nghiên cứu này, để xem xét mối quan hệ của việc luân chuyển KTV và CLKT thì cần phải có dữ liệu chuỗi thời gian tương đối dài. Do đó, mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam từ 10 năm trở lên. Theo đó, chỉ có một số công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoáng TP.HCM (HOSE) mới đáp ứng yêu cầu này. Ngoại trừ các công ty kinh doanh trong lãnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thống kê cho thấy trên sàn HOSE có 70 công ty niêm yết trên 10 năm. Trong đó, có 4 công ty dữ liệu không đầy đủ cho 10 năm nên nghiên cứu này sử dụng dữ liệu của 66 công ty niêm yết trong 10 năm từ 2006 đến 2015 làm mẫu nghiên cứu của đề tài. Như vậy, số lượng quan sát trong đề tài là 660 quan sát. Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập các dữ liệu trên BCTC bao gồm số dư các khoản mục các khoản phải thu khách hàng, tổng nợ phải trả, giá trị còn lại tài sản cố định, tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán; khoản mục lợi nhuận trước thuế thu nhập, doanh thu thuần trong kỳ trên báo NGUYỄN ANH HIỀN 25 cáo kết quả kinh doanh; khoản mục lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trên báo cáo KT, tên KTV chính thực hiện KT BCTC năm đó và tên công ty KT sẽ được ghi nhận lại. Mỗi chuỗi số liệu sẽ được tính toán bằng phần mềm Excel để tính tổng lợi nhuận dồn tích (TA), từ đó tính toán thông qua mô hình nghiên cứu nói trên để tính toán các khoản dồn tích tự định (DA). Nhiệm kỳ kiểm toán (thời gian luân chuyển KTV) được hiểu là số năm một KTV độc lập thực hiện kiểm toán cho cùng một công ty. Mỗi chuỗi số liệu sau khi tính toán các giá trị cần thiết sẽ là một quan sát để chạy hồi qui trên phần mềm SPSS để tìm mối tương quan giữa nhiệm kỳ KT và CLKT. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Kết quả thống kê thời gian luân chuyển KTV và CLKT Để phân tích tương quan giữa biến TENURE và DA, nghiên cứu tính giá trị trung bình của DA tương ứng với từng năm luân chuyển KTV, kết quả được trình bày trong bảng 1. Bảng 1. Thống kê CLKT và thời gian luân chuyển KTV Nhiệm kỳ kiểm toán Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6 Năm 7 Giá trị trung bình DA 0,2241 0,2437 0,2108 0,1570 0,1514 0,1523 0,5014 Số lượng quan sát 352 167 92 24 13 9 3 Qua bảng 1, ta thấy giá trị trung bình của DA thấp nhất là ở năm thứ 5 (0,1514) và cao nhất là ở năm thứ 7 (0,5014). Kết quả DA trung bình trong từng năm cũng cho thấy DA ở các năm thứ nhất và năm thứ 2 cao cho thấy một thực tế là kiểm toán trong hai năm đầu tạo ra nhiều rủi ro cho KTV khiến CLKT không được đảm bảo. Tuy nhiên, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 giá trị DA giảm dần qua từng năm, đến năm thứ 6 thì DA tăng trở lại và đặc biệt tăng cao ở năm thứ 7. Do đó, CLKT có xu hướng tăng dần từ năm KT thứ 3 đến năm thứ 5. Bước sang năm thứ 6 thì CLKT bắt đầu có xu hướng giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7. Kết quả này cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán không vượt quá 5 năm thì giá trị DA trung bình càng giảm xuống tức là CLKT tăng lên. 4.2. Kết quả phân tích hồi qui Để có thể khẳng định việc luân chuyển KTV có ảnh hưởng đến CLKT không, nghiên cứu tiếp tục thực hiện hồi qui đa biến với mô hình nghiên cứu được đề xuất ở trên. Kết quả hồi qui được trình bày ở bảng 2. MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN 26 Bảng 2. Kết quả hồi qui Coefficientsa Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. 95,0% Confidence Interval for B Collinearity Statistics B Std. Error Beta Lower Bound Upper Bound Tolerance VIF 1 (Constant) 2,333 ,498 4,687 ,000 1,356 3,311 BIG4 ,047 ,050 ,043 ,950 ,342 -,050 ,145 ,706 1,416 TENURE ,007 ,016 ,016 ,407 ,684 -,025 ,038 ,956 1,046 CFO 4,544E-014 ,000 ,056 1,334 ,183 ,000 ,000 ,841 1,190 GROW ,161 ,041 ,152 3,911 ,000 ,080 ,241 ,964 1,037 LEV -,010 ,083 -,005 -,124 ,901 -,173 ,153 ,949 1,054 SIZE -,182 ,043 -,201 -4,224 ,000 -,267 -,098 ,643 1,555 a. Dependent Variable: DA (Y) Bảng 3. Kết quả tổng hợp mô hình Model Summary b Mode l R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Change Statistics Durbin- Watson R Square Change F Change df1 df2 Sig. F Change 1 ,219 a ,048 ,039 ,45699679 ,048 5,452 6 652 ,000 1,771 a. Predictors: (Constant), SIZE, TENURE, GROW, LEV, CFO, BIG4 b. Dependent Variable: DA (Y) Kết quả hồi qui đa biến thể hiện ở bảng 2 cho thấy biến TENURE không có ý nghĩa thống kê trong mô hình (giá trị sig đều lớn hơn 5%). Điều này có nghĩa là với bộ dữ liệu trong mẫu nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa thời hạn luân chuyển KTV và CLKT. Điều này là do từ năm 2004 Việt Nam đã có qui định thời gian luân chuyển KTV là 3 năm nên biến TENURE trong mô hình chủ yếu nhận giá trị 1, 2, 3. Các trường hợp biến TENURE có giá trị lớn hơn 3 phần lớn là do cách năm (không liên tục). Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới như Siregar và các cộng sự (2012), Geiger và Raghunandan (2002), Carcello và Nagy (2004), Johnson và cộng sự (2002), Knechel và Vanstraelen (2006) Về giá trị và dấu của các biến độ lập khác, ta thấy chỉ có biến GROW và SIZE là có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là tốc độ tăng trưởng và qui mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến CLKT. Giá trị R2 điều chỉnh trong mô hình hồi qui là 3,9% (bảng 3). Nguyên nhân mức độ giải thích của mô hình thấp là do biến DA NGUYỄN ANH HIỀN 27 đại diện cho chất lượng thông tin lợi nhuận được dùng để đo lường CLKT. Trong khi đó, CLKT bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố mà thời hạn luân chuyển KTV chỉ là một trong số các nhân tố đó. Do đó, mô hình khó có thể giải thích được toàn bộ sự thay đổi của DA. 5. Kết luận và khuyến nghị 5.1. Kết luận Mặc dù còn nhiều tranh luận nhưng vấn đề luân chuyển KTV đã được áp dụng tại nhiều quốc gia với phạm vi áp dụng và thời gian luân chuyển khác nhau. Các nghiên cứu trên thế giới về quy định này cũng khá đa dạng về phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề cũng như kết quả nghiên cứu. Phần lớn trong số các nghiên cứu đó không ủng hộ quan điểm cho rằng: Thời gian luân chuyển KTV bắt buộc làm gia tăng CLKT. Trong nghiên cứu thực nghiệm này ở các công ty niêm yết tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu sử dụng thước đo các khoản dồn tích có thể điều chỉnh (DA) để đo lường CLKT. Với dữ liệu là 66 công ty niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2015, kết quả nghiên cứu cho thấy không có bằng chứng về mối quan hệ giữa thời gian luân chuyển KTV và CLKT. Tuy nhiên, kết quả thống kê mô tả cho thấy nếu cùng 1 KTV thì CLKT sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5. Từ năm thứ 6 CLKT bắt đầu giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7. 5.2. Một số khuyến nghị - Đối với Chính Phủ, Bộ Tài chính: Theo điều 16 Nghị định 17/2012/NĐ- CP của Chính phủ ngày 13/3/2012 qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật kiểm toán độc lập thì “Kiểm toán viên hành nghề không được ký báo cáo kiểm toán cho một đơn vị được kiểm toán quá ba (03) năm liên tục”. Quy định này của Chính phủ có thể xuất phát từ yêu cầu phải gia tăng tính độc lập của các KTV nhưng điều này lại khiến họ phải gặp rủi ro cao trong nghề nghiệp khi làm lãng phí những kinh nghiệm thực tế, những hiểu biết sâu sắc về tình hình và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp khách hàng hiện tại; đồng thời họ lại gặp khó khăn trong việc tìm hiểu một khách hàng mới để lập kế hoạch KT năm đầu tiên khiến số liệu trên BCTC sẽ có tính trung thực, hợp lý không cao. Do đó, trong chừng mực nào đó, quy định này đã làm giảm chứ không làm tăng CLKT, tăng thêm chi phí xã hội mà lợi ích mang lại không rõ ràng. Với các bằng chứng thực nghiệm từ nghiên cứu này, Chính phủ nên xem xét nâng thời hạn tối đa phải thay đổi KTV lên 5 năm thay vì 3 năm như hiện nay. Thống kê về qui định luân chuyển KTV ở các quốc gia Châu Á cũng cho thấy có rất nhiều các quốc gia Châu Á chọn mốc thời gian 5 năm làm qui định bắt buộc luân chuyển KTV như Trung Quốc, Malaysia, Pakistan, Thái Lan, Singapore - Đối với Hội KTV hành nghề, các công ty kiểm toán: Hội KTV hành nghề (VACPA) cần tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài, đặc biệt cần chú trọng đến những hợp đồng kiểm toán những năm đầu. Những trường hợp kiểm toán không liên tục nhưng từ năm thứ 6 trở đi cũng cần được chú trọng kiểm soát chất lượng. Đối với việc kiểm soát chất lượng từ bên trong, các công ty KT cần thận trọng hơn trong việc tiếp nhận khách hàng mới, tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện đội ngũ nhằm nâng cao trình độ KTV; đồng thời có những chính sách khuyến khích việc chia sẻ những kinh nghiệm, MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN 28 những hiểu biết từ những KTV tiền nhiệm cho nhóm KTV mới nhằm mục tiêu vừa có thể tăng cường sự độc lập cho KTV nhưng vẫn đảm bảo KTV có được những hiểu biết cần thiết về khách hàng để cuộc KT đạt được chất lượng mong muốn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chen, C-Y., Lin, C-J., & Lin, Y-C. (2008). Audit partner tenure, audit firm tenure and discretionary accruals: Does long auditor tenure impair earnings quality? Contemporary Accounting Research, 25, 415-445. 2. Chi, W., Huang, H., Liao, Y., & Xie, H. (2009). Mandatory audit-partner rotation, audit quality and market perception: Evidence from Taiwan. Contemporary Accounting Research, 26, 359-391. 3. Dechow, R., Sloan, G., and Sweeney, A., P. (1995), “Detecting earnings management”. The Accounting Review, Vol.70 (2), pp. 193-225. 4. Jones, J. (1991) “Earnings Management During Import Relief Investigations.” Journal of Accounting Research 29, 193-228. 5. Sylvia Veronica Siregar, Fitriany Amarullah, Arie Wibowo and Viska Anggraita, Audit Tenure, Auditor Rotation, and Audit Quality: The Case of Indonesia. Ngày nhận bài: 20/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_luan_chuyen_kiem_toan_vien_va_chat_luong_ki.pdf