Mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội tự nguyện: Một số khuyến nghị chính sách
Đặc điểm chính của chính sách
BHXH tự nguyện hiện hành
- Đối tượng không thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc có quyền tham gia BHXH
tự nguyện. Việc tham gia hay không tham
gia BHXH tự nguyện là do đối tượng tự
quyết định.
- BHXH tự nguyện chỉ có 2 chế độ là
hưu trí và tử tuất.
- Mức thu nhập làm căn cứ tính phí
đóng BHXH hàng tháng thấp nhất bằng
mức tiền lương tối thiểu theo qui định tại
thời điểm tham gia; mức cao nhất bằng 20
lần mức tiền lương tối thiểu tại thời điểm
tham gia.
- Mức phí tối thiểu đóng BHXH tự
nguyện là 16% mức lương tối thiểu. Từ
năm 2010, cứ hai năm một lần, tỷ lệ này
lại tăng thêm 2%, cho đến khi đạt mức
22%.
- Khi đến tuổi nghỉ hưu, đối tượng tham
gia sẽ được nhận lương hưu hàng tháng nếu
đã có tối thiểu 20 năm đóng bảo hiểm. Để
tạo điều kiện cho người dân có cơ hội được
hưởng lương hưu khi về già, đối tượng
tham gia khi đến tuổi 60 đối với nam và 55
đối với nữ mà đã có thời gian đóng BHXH
trên 15 năm thì được đóng tiếp cho đến khi
đủ 20 năm tham gia BHXH.
- Mức lương hưu hằng tháng được tính
bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng
đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng
BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng
BHXH thì được tính thêm 2% đối với nam
và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
Thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH
được điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) để tính mức bình quân thu nhập
tháng đóng BHXH tại thời điểm nghỉ hưu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội tự nguyện: Một số khuyến nghị chính sách
i với nam có 30 năm đóng BHXH và nữ có 25 năm đóng BHXH là tương đối cao. Qui định này khuyến khích đối tượng tham gia vào hệ thống. Tuy nhiên, kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ tham gia đóng BHXH thì chỉ được hưởng trợ cấp một lần với mức trợ cấp cho mỗi năm tham gia bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH19. Qui định này rõ ràng không khuyến khích đối tượng tham gia hệ thống lâu hơn 30 năm đối với nam và 25 năm đối với nữ bởi chỉ với mức đóng hằng tháng bằng 16% mức thu nhập tháng đóng BHXH thì mỗi năm đối tượng đã đóng một khoản tiền tương ứng bằng 1,92 lần mức thu nhập tháng đóng BHXH (chưa tính số lãi từ đầu tư), trong khi lại chỉ được hưởng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. Do mức hưởng lợi cao nhất đối với đối tượng tham gia BHXH là có 30 năm đóng BHXH đối với nam và 25 năm đóng BHXH đối với nữ nên đối tượng tham gia có thể hoặc là trì hoãn tham gia vào hệ thống khi còn trẻ (dưới 35 tuổi đối với nam và 30 tuổi đối với nữ) hoặc là sẽ dừng không tham gia BHXH khi đã có đủ thời gian tham gia để được hưởng 75% mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH dù chưa đến tuổi nghỉ hưu. Điều này cũng làm giảm khả năng gia tăng độ bao phủ của BHXH tự nguyện. 18 Theo bảng sống của Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 1999. 19 Khoản 2, Điều 72 của Luật BHXH. Từ những phân tích chính sách ở trên, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị chính sách dưới đây. 4. Khuyến nghị chính sách 4.1. Hỗ trợ đối tượng có thu nhập thấp tham gia BHXH tự nguyện Đối tượng có thu nhập thấp khi còn sức lao động thì nguy cơ rơi vào cảnh đói nghèo khi về già là rất lớn. Như vậy, sẽ làm tăng gánh nặng đối với Ngân sách Nhà nước để thực hiện các chính sách xã hội (XH) trong đó có chi trợ cấp XH hàng tháng và bảo hiểm (BH) y tế miễn phí. Bảng sống năm 1999 cho thấy nam giới 65 tuổi và nữ giới 60 tuổi bình quân có thể sống được thêm 17 năm nữa, trong đó nam sống thêm được 14,6 năm và nữ sống thêm được 19,4 năm20. Thực tế này có nghĩa là Ngân sách Nhà nước cần đảm bảo cuộc sống cho những đối tượng già nhưng nghèo này do họ không có nguồn thu nhập. Theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ thì người cao tuổi không có nguồn thu nhập thuộc hộ gia đình nghèo được hưởng trợ cấp hàng tháng là 120 ngàn đồng và được hưởng BH y tế miễn phí. Dự kiến từ năm 2010, mức lương hưu XH sẽ tăng lên 180 ngàn đồng và tiền lương tối thiểu sẽ là 730 ngàn đồng. Giả định rằng mức trợ cấp 180 ngàn đồng/tháng và tiền lương tối thiểu 730 ngàn đồng/tháng không thay đổi thì bình quân Ngân sách Nhà nước chi cho một đối tượng bảo trợ này sẽ là: 180 ngàn * 12 tháng * 17 năm cho trợ cấp hàng tháng và 20 Do mức sống được cải thiện, chăm sóc y tế ngày càng hiện đại hơn và kiến thức chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh của người dân ngày càng được cải thiện nên tuổi thọ của người dân hiện nay có thể cao hơn cao hơn và tiếp tục gia tăng trong tương lai. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 21/Quý IV- 2009 39 4,5% * 730 ngàn * 17 năm cho BH y tế miễn phí. Như vậy, tổng số tiền mà Ngân sách Nhà nước cần chi cho một đối tượng này là: 36.720 ngàn đồng trợ cấp hàng tháng + 558 ngàn BH y tế miễn phí = 37.278 ngàn đồng. Nếu đối tượng trên có lương hưu từ BHXH thì Ngân sách Nhà nước sẽ không phải chi khoản tiền trên và mức sống của đối tượng này cũng được đảm bảo hơn do mức lương hưu tối thiểu là: 55% * 730 ngàn = 401 ngàn đồng/tháng và đối tượng này còn có bảo hiểm y tế do quỹ BHXH tự nguyện chi trả. Vậy, Nhà nước nên hỗ trợ mức phí là bao nhiêu cho người lao động có thu nhập thấp tham gia BHXH tự nguyện? câu trả lời là sự hỗ trợ sẽ khả thi nếu mức hỗ trợ này của Nhà nước không vượt quá số tiền 37.278 ngàn đồng/người mà Nhà nước sẽ phải chi như đã tính ở trên. Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 2006 của Tổng cục Thống kê cho thấy chênh lệch giữa mức thu nhập bình quân/người/tháng so với chi tiêu bình quân/người tháng của các hộ gia đình năm 2006 là khá lớn giữa các nhóm ngũ phân vị chi tiêu. Hình 1 cho thấy mức chênh lệch này của nhóm 20% chi tiêu thấp nhất (Q1) chỉ là 43 ngàn đồng vào năm 2006. Như vậy, người lao động thuộc nhóm Q1 không đủ khả năng tham gia BHXH vì qui định mức phí BHXH tự nguyện hàng tháng bằng 22% * 730 ngàn đồng = 99 ngàn đồng là cao so với năng lực tài chính của họ. Hình 1. Chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người phân theo ngũ phân vị chi tiêu hộ gia đình 87 125 158 237 642 42 89 127 210 376 43 90 129 213 416 0 100 200 300 400 500 600 700 N g à n đ ồ n g Q 1 Q 2 Q 3 Q 4 Q 5 Q 1 Q 2 Q 3 Q 4 Q 5 Q 1 Q 2 Q 3 Q 4 Q 5 Thành thị Nông thôn Cả nước Khu vực Nguồn: Tính từ số liệu VHLSS 2006 của GSO Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 21/Quý IV- 2009 40 Nếu phần thiếu này được Nhà nước hỗ trợ thì mức hỗ trợ sẽ là: 22% * 450 ngàn – 43 ngàn = 56 ngàn đồng hay tương đương 56,6% mức phí tối thiểu tham gia BHXH tự nguyện. Như vậy, nếu Nhà nước hỗ trợ phần chênh lệch này cho người lao động thuộc nhóm Q1 tham gia BHXH tự nguyện trong cả 20 năm thì mức hỗ trợ vẫn thấp hơn nhiều so với trường hợp Nhà nước phải chi lương hưu xã hội và bảo hiểm y tế cho họ trong tương lai. Bảng 3. So sánh chi phí bình quân của NSNN cho một người cao tuổi và lao động có thu nhập thấp tham gia BHXH tự nguyện Chi cho người cao tuổi (trợ cấp hàng tháng và BH y tế trong 17 năm, MW = 730 ngàn đồng) Hỗ trợ phí cho lao động có thu nhập thấp tham gia BHXH tự nguyện (56,6% MW trong 20 năm, tỷ lệ phí đóng = 22% MW, MW = 730 ngàn đồng) 180 ngàn * 12 tháng * 17 năm cho lương hưu XH + 4,5% * 730 ngàn * 17 năm cho BH y tế tế miễn phí = 37.278 ngàn đồng. 56,6% * 22% * 730 ngàn * 12 tháng * 20 năm = 21.816 ngàn đồng. Trong thực tế thực hiện, dù có chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì cũng không phải 100% người lao động thuộc nhóm chi tiêu thấp nhất Q1 (gần 8,7 triệu người) sẽ tham gia mà chỉ một số trong số họ tham gia mà thôi. Mặc dù vậy, giả định rằng 100% đối tượng có thu nhập thấp sẽ tham gia thì số tiền tối đa trong 1 năm mà NSNN cần chi để hỗ trợ phí tham gia BHXH tự nguyện sẽ là 56,6% * 22% * 730 ngàn đồng * 12 tháng * 8,7 triệu người = 9.490 tỷ đồng, hay tương đương với khoảng 0,5% GDP năm 201021. Tóm lại, bằng việc hỗ trợ một phần phí tham gia BHXH tự nguyện cho đối tượng có thu nhập thấp, BHXH tự nguyện có cơ 21 Giả định tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 là 5,2%, lạm phát 7%; tăng trưởng kinh tế năm 2010 là 6,5%, lạm phát là 7%. hội để gia tăng độ bao phủ mà không ảnh hưởng nhiều đến chi Ngân sách Nhà nước xét trong dài hạn. 4.2. Hỗ trợ lao động trẻ tham gia BHXH tự nguyện Do mức sống của người dân còn thấp và trình độ hiểu biết của người dân về tầm quan trọng của BHXH còn hạn chế nên để khuyến khích người lao động sớm tham gia BHXH tự nguyện, giảm thiểu thời gian trì hoãn tham gia hoặc thậm chí là không tham gia BHXH, Nhà nước cần hỗ trợ một phần phí đóng BHXH cho lao động trẻ trong thời kỳ đầu tham gia BHXH tự nguyện. Số liệu của BHXH nông dân Nghệ An cho thấy số lao động dưới 25 tuổi tham gia BHXH nông dân Nghệ An chỉ chiếm 2,3% tổng số đối tượng tham gia trong khi số Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 21/Quý IV- 2009 41 liệu điều tra mức sống dân cư 2006 cho thấy trong số trên 28 triệu lao động là nông dân và người tự tạo việc làm tuổi từ 15-64 thì có 5,1 triệu người thuộc nhóm tuổi 15- 24, chiếm 18%. Thực tế này cho thấy cần có chính sách khuyến khích lao động trẻ tham gia BHXH tự nguyện. Hình 2. Cơ cấu đối tượng tham gia BHXH nông dân Nghệ An theo nhóm tuổi (Từ 15-64 tuổi) Hình 3. Cơ cấu nông dân, lao động tự tạo việc làm toàn quốc theo nhóm tuổi (nam 15-64, nữ 15-59 tuổi) 40-44 tuổi: 23.7% > 45 tuổi: 33.5% 30-39 tuổi: 34.4% 25-29 tuổi: 6.1% 15-24 tuổi: 2.3% Nguồn: Cơ quan BHXH Nông dân Nghệ An (2007) 25-29 tuổi: 8.6% 30-39 tuổi: 24.9% 40-44 tuổi: 14.4% 15-24 tuổi: 18.0% > 45 tuổi: 34.1% Nguồn: VHLSS 2006 Thời gian hỗ trợ một phần phí đóng BHXH là 1 năm, 2 năm hay lâu hơn cần được nghiên cứu thêm trên cơ sở các bằng chứng về mức thu nhập và chi tiêu của nhóm lao động trẻ và khả năng ngân sách của Nhà nước. Do hạn chế của số liệu hiện có, nghiên cứu này không xác định được thời gian và mức hỗ trợ nên là bao nhiêu. Tóm lại, với chính sách hỗ trợ này, ngoài việc sẽ góp phần gia tăng độ bao phủ của BHXH tự nguyện thì còn đảm bảo cho đối tượng tham gia đáp ứng điều kiện có tối thiểu 20 năm tham gia BHXH để được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu bởi nông dân cũng như lao động trong khu vực phi kết cấu không hẳn sẽ có đủ khả năng để đóng phí BHXH một cách liên tục và đều đặn do việc làm và thu nhập của họ phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan như điều kiện thời tiết, mùa vụ và dịch bệnh, v.v. 4.3. Xây dựng chính sách thích hợp để tạo cơ hội cho đối tượng nữ trên 40 tuổi và nam trên 45 tuổi tham gia BHXH tự nguyện Do hệ thống BHXH tự nguyện hiện hành được thiết kế theo nguyên lý vận hành “tọa thu tọa chi” với mức hưởng được tính theo công thức đã xác định trước (Defined Benefit) nên rất cần phải qui định có một khoảng thời gian tối thiểu tham gia đóng BHXH thì mới được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng để đảm bảo tính bền vững của quỹ BHXH. Chính sách BHXH tự nguyện Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 21/Quý IV- 2009 42 hiện hành qui định khoảng thời gian này là 20 năm. Vì vậy, như đã phân tích thì có tới 42,2% số nông dân và người tự tạo việc làm ở tuổi từ 15-65 với nam và 15-60 với nữ không thể tham gia BHXH tự nguyện do đã trên 45 tuổi đối với nam và trên 40 tuổi đối với nữ. Đây là một tỷ lệ không nhỏ. Việc có chính sách phù hợp để những đối tượng này có cơ hội tham gia BHXH tự nguyện sẽ làm tăng đáng kể độ bao phủ của chính sách BHXH, góp phần đảm bảo mục tiêu ASXH cho mọi người dân. Để đảm bảo tính an sinh cả về mức hưu trí của đối tượng cũng như tính an toàn của quỹ BHXH, chính sách BHXH đối với nhóm đối tượng này có thể thiết kế theo dạng tài khoản cá nhân tương trưng (Notional Defined Contribution). Một số gợi ý ban đầu như sau: - Trên cơ sở độ tuổi bắt đầu tham gia BHXH và tuổi nghỉ hưu theo qui định (nam 65, nữ 60 tuổi), xác định thời gian (số tháng) tham gia đóng BHXH của đối tượng; - Trên cơ sở dự báo tốc độ tăng chỉ số giá sinh hoạt và tốc độ trưởng kinh tế hàng năm từ thời điểm đối tượng tham gia BHXH tới thời điểm đối tượng nghỉ hưu, xác định mức tiền lương tối thiểu tại thời điểm đối tượng nghỉ hưu để tính mức lương hưu thấp nhất của đối tượng tham gia (55% tiền lương tối thiểu tại thời điểm đối tượng nghỉ hưu); - Trên cơ sở kỳ vọng sống trung bình của đối tượng tính từ thời điểm đối tượng nghỉ hưu, dự báo tốc độ tăng chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế, mức lương hưu mà đối tượng hưởng tại thời điểm nghỉ hưu, xác định tổng số lương hưu mà đối tượng sẽ hưởng; - Trên cơ sở dự tính lãi suất từ đầu tư tiền nhàn rỗi tính từ thời điểm đối tượng nghỉ hưu và tổng số lương hưu mà đối tượng sẽ hưởng, chi phí đóng bảo hiểm y tế và chi phí quản lý, xác định số tiền cần tích lũy được trong tài khoản tượng trưng của đối tượng tại thời điểm nghỉ hưu; - Trên cơ sở dự tính lãi suất từ đầu tư tiền nhàn rỗi trong những năm đối tượng tham gia đóng BHXH, số tiền cần tích lũy được trong tài khoản tượng trưng, xác định mức phí BHXH hàng tháng thấp nhất mà đối tượng cần đóng vào quỹ BHXH. Việc có chính sách cho lao động trên 45 tuổi với nam và trên 40 tuổi với nữ tham gia BHXH không chỉ mở rộng được độ bao phủ của chính sách BHXH tự nguyện do ở độ tuổi này, người lao động chú ý nhiều hơn đến cuộc sống khi về già và tiềm lực tài chính của những lao động này cũng tốt hơn do không còn phải chi phí nhiều cho nuôi dạy con cái mà còn là bước khởi đầu cho quá trình chuyển đổi mô hình BHXH tọa thu tọa chi như hiện nay sang mô hình tài khoản cá nhân tượng trưng NDC để tiến tới hình thành một hệ thống BHXH công bằng, minh bạch và bền vững, loại bỏ được những yếu điểm của hệ thống BHXH hiện hành, cụ thể: - Tính công bằng cho các nhóm đối tượng ở các khu vực kinh tế và giữa các thế hệ trong tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH bắt buộc cũng như tự nguyện được đảm bảo; - Tính bền vững của tài chính quỹ BHXH được đảm bảo do mức hưởng được tính dựa Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 21/Quý IV- 2009 43 trên tổng số tiền đã tích lũy được (phí đóng BHXH, lãi từ đầu tư tiền nhàn rỗi, phí mua BH y tế và chi phí quản lý) và kỳ vọng sống trung bình tính từ tuổi nghỉ hưu của đối tượng. Mức lương hưu có thể được điều chỉnh trên cơ sở số tiền còn tồn tích trong tài khoản tượng trưng của người hưởng; - Khuyến khích được đối tượng tham gia BHXH với thời gian dài hơn 30 năm đối với nam và 25 năm đối với nữ do càng tham gia lâu thì mức lương hưu càng cao. Tài liệu tham khảo 1. Bales S., Castel P (12/2005), Điều tra về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam (VSIIS): các hàm ý chính sách, Quỹ tín thác ASEM-II tài trợ Dự án Xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. 2. Cơ quan Bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An (10/2007), Số liệu lưu trữ về bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An. 3. DFID-UNDP (2005), Beyond HEPR: khung làm việc cho một hệ thống bảo hiểm xã hội quốc gia hợp nhất ở Việt Nam, Đối thoại chính sách Việt Nam - UNDP 2005/1 Hà nội, tháng Ba năm 2005. 4. Luật Bảo hiểm xã hội (2006). 5. Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/1/2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ. 6. Paulette Castel (11/2007), An sinh cho người cao tuổi: Các chính sách ngắn hạn và trung hạn, Nghiên cứu do DFID Việt Nam tài trợ. 7. Quyết định số 41/2009/QĐ-TTg ngày 16/03/2009 do Thủ tướng Chính phủ ban hành hướng dẫn việc chuyển Bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An sang Bảo hiểm xã hội tự nguyện. 8. Tổng cục Thống kê (2007), Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 2006. 9. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (12/2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, Chương trình cấp Bộ 2007-2008. 10. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (12/2009), Dự thảo Chiến lược An sinh xã hội thời kỳ 2011-2020. 11. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (12/2009), Dự thảo Đề án Hệ thống An sinh xã hội cho dan cư nông thôn giai đoạn 2011-2020. 12. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (12/200), Nghiên cứu chuyển đổi Bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An sang bảo hiểm xã hội tự nguyện quốc gia.
File đính kèm:
- mo_rong_do_bao_phu_cua_bao_hiem_xa_hoi_tu_nguyen_mot_so_khuy.pdf