Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác và vấn đề xây dựng, phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
Dự báo thiên tài “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”của C.Mác
với ý nghĩa khoa học sẽ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất xã hội đã trở thành
hiện thực trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, đối với Việt Nam hiện
nay, trong quá trình hoạch định, xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, Đảng ta luôn quán triệt “khoa học - công nghệ thực sự là quốc
sách hàng đầu”, coi đó là nền tảng, động lực quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát
triển nhanh và bền vững của đất nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác và vấn đề xây dựng, phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác và vấn đề xây dựng, phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
vô tận, hơn thế nữa, các vấn đề toàn cầu đang ngày càng trở nên cấp bách, phát triển bền vững đang trở thành mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, các quốc gia cần có chiến lược phát triển kinh tế mới, giảm sự lệ thuộc vào tài nguyên. Một ví dụ điển hình là Trung Quốc. Sau nhiều năm tăng trưởng xuất khẩu công nghệ, quốc gia này đã bắt đầu bước vào giai đoạn tạo ra công nghệ với sự xuất hiện mạnh mẽ của một số tập đoàn phát triển công nghệ hàng đầu thế giới, trở thành nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 60 Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã khẳng định phát triển khoa học và công nghệ sẽ là cơ hội cho mọi dân tộc, nhất là các dân tộc đi sau có thể phát triển nhanh bằng đi tắt, đón đầu. Ở mức độ nhất định, chúng ta đã bước đầu được thụ hưởng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động khoa học và công nghệ của Việt Nam thời gian qua còn nhiều hạn chế, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và công nghệ chưa được chú trọng đúng mức. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ tuy đã có nhiều đổi mới nhưng còn không ít bất cập, hạn chế; cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chậm được hoàn thiện, chỉ khoảng 30% số nghiên cứu được chuyển giao ứng dụng hoặc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện; số doanh nghiệp dám “mạo hiểm” đầu tư cho các nghiên cứu khoa học còn rất ít Khi đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc cách mạng công nghiệp lần này đang tạo ra thời cơ mới cho Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn và hiệu quả hơn vào nền kinh tế thế giới, là cơ hội để Việt Nam tiến thẳng vào lĩnh vực công nghệ mới, tranh thủ các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thu hẹp khoảng cách phát triển [3]. Thông qua cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò, tầm quan trọng của khoa học và công nghệ được thể hiện rõ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo động lực lớn đưa Việt Nam đến sự phồn vinh thì tất yếu phải xây dựng và phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. 2.2.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học công nghệ, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, coi đó không chỉ là động lực phát triển kinh tế - xã hội mà còn là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối, chủ trương xây dựng, phát triển khoa học công nghệ đã được từng bước làm rõ, được bổ sung, phát triển hoàn thiện qua các giai đoạn phát triển. Trong những năm qua, không chỉ đưa các quan điểm chỉ đạo phát triển khoa học công nghệ trong các kỳ đại hội Đảng toàn quốc, Đảng và Nhà nước ta còn có nhiều chủ trương và chính sách lớn nhằm phát triển công nghệ như: Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhiệm vụ đến năm 2000; Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010; Luật Khoa học và công nghệ; Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 và Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 61 nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi mà dự báo khoa học của C.Mác “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” đang trở thành hiện thực, khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thức tư đang lan rộng và phát huy tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới thì đối với Việt Nam, một nước phát triển đi sau, phải “phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh”. Khi nhấn mạnh khoa học công nghệ “thực sự là động lực quan trọng nhất”, Đảng ta muốn nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển khoa học, công nghệ của đất nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua, coi đây là công việc trọng yếu và thường xuyên của toàn Đảng và toàn xã hội. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh mới hiện nay, trong tổng thể các nhân tố tạo thành động lực như: hài hòa lợi ích, phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ... thì khoa học, công nghệ được nhìn nhận là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất, hiện đại hóa phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động. Đây chính là điểm nổi bật trong đường lối, chủ trương phát triển khoa học, công nghệ của Đảng ta tại Đại hội lần thứ XII. Một quan điểm mới trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và đây cũng được coi là tư duy đột phá của Đảng ta về phát triển khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới khi lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta” [4]. Chiến lược phát triển công nghệ quốc gia là một định hướng phát triển lớn và mới về phát triển công nghệ của đất nước trong thời gian tới. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các quốc gia và các doanh nghiệp nắm giữ và khai thác các công nghệ tiên tiến nhất để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Đổi mới công nghệ và đi tắt, đón đầu xu hướng công nghệ mới được xem là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững, là bí quyết để mỗi quốc gia phát triển và khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Do đó, Việt Nam hiện nay cần tận dụng và khai thác hiệu quả các thuận lợi, cơ hội mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại thông qua thực hiện hiệu quả chiến lược phát TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 62 triển công nghệ quốc gia, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta. Để hiện thực hóa mục tiêu “Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới” [5], Việt Nam cần tập trung thực hiện đồng bộ một số các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau: Một là phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các ngành khoa học và công nghệ có nhiệm vụ cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và triển khai đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc. Xác định rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững. Hai là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta. Tăng cường hợp tác về khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ cao, phải là hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế. Ba là có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ. Bốn là quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ. Năm là xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 63 dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ. 3. Kết luận Trong giai đoạn phát triển mới hiện nay, khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác cách đây hơn trăm năm không chỉ là sự khẳng định vai trò cũng như sức mạnh cải tạo thế giới của tri thức khoa học khi nó trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là những dự báo khoa học về sự phát triển và tác động to lớn của khoa học đối với nhân loại trong tương lai. Tiếp nối ba cuộc cách mạng trước đó, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã lan rộng và tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia trên thế giới về mọi phương diện của đời sống xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Trên cơ sở nhận thức vai trò to lớn của khoa học công nghệ, dựa trên yêu cầu của thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, xuất phát từ thực trạng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng ta đã từng bước bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển khoa học công nghệ đáp ứng với yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. Trước những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay cần phải tận dụng triệt để, hiệu quả những thành tựu của thời đại, đi tắt, đón đầu, phát triển khoa học, công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước, thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, hệ thống các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, chiến lược hoạch định, xây dựng, mục tiêu, phương hướng và giải pháp xây dựng, phát triển khoa học công nghệ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ mà quan trọng hơn là phải trở thành được nhiệm vụ hàng đầu, quyết tâm chính trị và hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội nhằm “nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững” [3, tr. 87]. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (2000), Toàn tập, tập 46, phần II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2. TS. Lê Thị Tình, TS. Đoàn Thị Mai Liên (2017), “Về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, kien/2017/46674/Ve-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu.aspx, (1/9/2018) 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 4. “Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI”, xem tại www.dangcongsan.vn, (1/9/2018) 5. “Công bố văn kiện Đại hội XII của Đảng: nội dung liên quan đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ” (2016), https://www.most.gov.vn/vn/tin- tuc/6488/cong-bo-van-kien-dai-hoi-xii-cua-dang--noi-dung-lien-quan-den-phat-trien- va-ung-dung-khoa-hoc-va-cong-nghe.aspx, (1/9/2018) THE THEORATICAL POINT OF “SCIENCE BECOMES THE DIRECT PRODUCTION FORCE” OF KARL MARX AND PROBLEMS OF BUILDING AND DEVELOPING SCIENCE AND TECHNOLOGY IN THE AGE OF TECHNOLOGY 4.0 IN VIETNAM ABSTRACT Prediction of genius - Science Becomes a Direct Production Force by Karl Marx has a scientific meaning. It proves that science will directly participate in the social production process, which has become a reality in the era of industrial revolution 4.0. Therefore, for Vietnam today, in the process of planning, building guidelines, guidelines and policies on socio-economic development, our Party always thoroughly understands "Science - technology is really a national policy.", considers it the foundation, the most important motivation to promote the rapid and sustainable development of the country. Keywords: Direct production forces, science and technology, industrial revolution 4.0 (Received: 12/11/2018, Revised: 22/1/2019, Accepted for publication: 19/3/2019)
File đính kèm:
- luan_diem_khoa_hoc_tro_thanh_luc_luong_san_xuat_truc_tiep_cu.pdf