Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính

Tóm tắt: Kính ghép màu là thuật ngữ dùng để nói đến vật liệu thủy tinh màu và các sản

phẩm được tạo ra từ cách ghép các thủy tinh màu lại với nhau. Kính ghép màu được dùng sớm

nhất trong hình thức trang trí cửa sổ của các nhà thờ, các công trình tôn giáo quan trọng. Ban

đầu, kính ghép màu là những tấm thủy tinh phẳng, dùng làm cửa sổ. Về sau, bằng sự sáng tạo của

những họa sĩ, nghệ sĩ, kính ghép màu đã được sử dụng để tạo nên rất nhiều sản phẩm nghệ thuật

độc đáo, lạ mắt và ấn tượng phục vụ cho con người.

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 1

Trang 1

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 2

Trang 2

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 3

Trang 3

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 4

Trang 4

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 5

Trang 5

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 6

Trang 6

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 7

Trang 7

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 8

Trang 8

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 9600
Bạn đang xem tài liệu "Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính

Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính
nhất, mang 
đến ý thức về đạo đức con người và mang đến 
cả thế giới. Ánh sáng xuyên qua các bức tranh 
kính trên cửa sổ của nhà thờ lung linh huyền 
ảo, nó dường như là thứ ánh sáng của Chúa 
Trời soi rọi và chiếu khắp con dân Công giáo. 
Có thể nói kiến trúc Gothic là nền tảng thúc 
đẩy và là bệ nâng đỡ cho tranh kính màu phát 
triển rực rỡ (hình 5). 
Hình 5. Các cửa sổ kính màu trong nhà thờ 
Cologne, Đức, đầu thế kỷ 14 (nguồn 
wikipedia.org) 
Thế kỷ XV, thời kỳ Phục hưng, tranh 
kính màu vẫn được phát triển mạnh mẽ. Bên 
cạnh đó, các họa sĩ còn “đưa nghệ thuật tạo 
hình vào tranh kính màu” [1, tr.350]. Những 
năm 1405 đến năm 1445, một số nghệ sĩ nổi 
tiếng thời kỳ này đã sáng tạo ra ba cửa sổ kính 
màu hình vòm cho mái vòm của nhà thờ và 
cho mặt tiền của nhà thờ. Mỗi cửa sổ chứa 
hình ảnh được vẽ từ cuộc sống của Chúa Kito 
hoặc cuộc sống của Đức Trinh Nữ Maria. Cửa 
sổ lớn, phía bên ngoài nó được bao quanh bởi 
một đường viên hoa rộng, hai cửa sổ nhỏ hai 
bên có hình các thánh tử vì đạo (hình 6). Thời 
Phục Hưng, với sự phát triển vượt bậc về 
khoa học kỹ thuật, các họa sĩ dùng nhiều kỹ 
thuật mới để tạo ra hiệu ứng cho kính màu, 
như sử dụng các công thức hóa học, các loại 
axit khác nhau trong việc tạo màu, cải thiện 
các khung bằng khung kim loại để chống sự 
xói mòn của thời tiết. Lúc này, các họa sĩ đã 
54 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
tự sản xuất được kính màu để sử dụng cho tác 
phẩm của riêng mình. 
Năm 1600, cách làm tranh kính mới 
xuất hiện, cảnh vật đươc vẽ trực tiếp lên các 
mảnh kính vuông, giống như ngói lợp nhà. 
Màu sắc đươc nung để lưu bền trên kính, sau 
đó các mảnh kính sẽ được lắp vào khung kim 
loại. Từ giữa thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, 
nhiều biến đổi lịch sử ảnh hưởng đến tranh 
kính màu, nhiều công trình bị phá bỏ [1, 
tr.351]. Tranh kính không còn được sử dụng 
trong các công trình kiến trúc, công nghệ và 
việc sản xuất kính màu cũng lãng quên. 
Thế kỷ XIX, trước sự phục hưng 
Công giáo ở Anh đã mang lại sự quan tâm 
mới về tranh kính. Thời kỳ này, phong trào 
Phục hưng lại nền kiến trúc Gothic diễn ra 
mạnh mẽ đã mang đến phong cách Công giáo 
thực sự trong kiến trúc. Nhiều công trình tôn 
giáo được xây dựng ở các thị trấn lớn, nhiều 
công trình nhà thờ cũ được phục hồi lại. Đây 
cũng là sự hồi sinh mạnh mẽ của nghệ thuật 
kính màu. Việc sản xuất kính màu trở lên 
phong phú hơn, nhiều công ty sản xuất kính 
màu được thành lập trong giai đoạn này. 
Hình 6. Cửa sổ kính màu “Sự phục sinh”, 
mái vòm nhà thờ ở Florence, Ý (nguồn 
wikipedia.org) 
Ở Pháp, việc sản xuất kính màu phát 
triển mạnh mẽ hơn ở Anh. Những tấm kính 
màu với kích thước lớn ra đời, các họa sĩ dùng 
sơn để vẽ trực tiếp trên các tấm kính lớn. Nội 
dung có trong các tác phẩm tranh kính thường 
được sao chép trực tiếp từ tranh sơn dầu của 
các họa sĩ nổi tiếng. Nhiều cửa sổ kính màu 
cổ đẹp nhất của Pháp được khôi phục lại vào 
thời điểm đó. Nhu cầu sử dụng kính màu ngày 
càng nhiều, các nhà máy sản xuất kính màu 
được thành lập. Kính màu lúc này nổi bật là 
màu sắc rực rỡ của màu xanh lam, thủy tinh 
màu hồng và màu hoa cà (hình 7). 
Hình 7. Cửa sổ kính màu “Cây Jesse” trong 
nhà thờ Reims, Đức (1861) (nguồn 
wikipedia.org) 
Năm 1857, tại New York, Hoa Kỳ, 
công ty sản xuất kính màu trang trí đầu tiên 
được thành lập. Nhiều năm sau đó, công ty 
này là nhà sản xuất kính màu lớn nhất thời 
bấy giờ. 
Thế kỷ XX, nghệ thuật kính màu phát 
triển trở lại. Các cuộc cách mạng công nghiệp 
đã ảnh hưởng đến sản xuất kính màu, các họa 
sĩ, nghệ sĩ không sử dụng kính màu do mình 
chế tác ra, họ chuyển sang sử dụng kính màu 
công nghiệp cho các tác phẩm của mình. Với 
thành tựu của cách mạng công nghiệp, việc 
sản xuất kính màu công nghiệp có sự cải thiện 
rõ rệt. Chất lượng, màu sắc tốt và phong phú 
hơn, độ trong, độ bắt ánh sáng cao hơn (hình 
8). 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 55 
Hình 8. Một trong bốn tấm kính màu cao 64 
mét (210 ft), nhà thờ Rio de Janeiro, Brazil) 
(nguồn wikipedia.org) 
Trong suốt thế kỷ XX và đầu những 
năm đầu thế kỷ XXI, tranh kính màu phụ 
thuộc vào xu thế phát triển của kiến trúc hiện 
đại. Nếu như trước đây tranh kính là một yếu 
tố quan trọng không thể thiếu nhằm xác lập 
yếu tố kiến trúc, thì nay vai trò đó không còn 
nữa mà trở thành một bộ phận của ngành kiến 
trúc. 
Trong lịch sử phát triển của mình, 
tranh kính màu cũng chịu ảnh hưởng của các 
trào lưu của mỹ thuật thế giới và mang đậm 
dấu ấn, cá tính của từng họa sĩ, từng vùng 
miền. Kỹ thuật tranh kính cũng thay đổi và đa 
dạng hơn về thể loại, chất liệu, ngôn ngữ tạo 
hình. Đây là sự thay đổi cần thiết để tranh 
kính màu tồn tại và phát triển theo nhu cầu 
của từng thời đại [1, tr.353, 354]. 
Ở Việt Nam, thời Văn hóa Sa Huỳnh, 
được xác định vào khoảng năm 1000 TCN 
đến thế kỷ thứ II là thời kỳ mà người dân đã 
biết chế tác và sử dụng đồ thủy tinh để làm 
trang sức và đồ trang trí. Trong các khu mộ 
táng, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều 
bộ hạt chuỗi, cườm bằng thủy tinh có màu 
xanh, vàng hoặc nâu. 
Thủy tinh nhân tạo là một thành tựu 
rực rỡ của văn hóa Sa Huỳnh. Các cư dân 
dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và 
đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy 
tinh mà sử sách Trung Quốc gọi là "Lưu li" 
gốc từ chữ Phạn là verulia từ đầu công 
nguyên. Đây là một trong những nơi làm ra 
thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới. Chúng 
không những đa dạng về kiểu dáng mà còn 
phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen, 
xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Sử Trung 
Hoa đã từng ghi chép về một chén thủy tinh 
xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén 
lưu ly với một sự trân trọng và khâm phục. 
Nổi bật trong những vật trang sức của 
người Sa Huỳnh là khuyên tai ba mấu dành 
cho phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú của nam 
giới. Nếu khuyên tai ba mấu dịu dàng, tinh tế 
và khá duyên dáng thì khuyên tai hai đầu thú 
lại thể hiện chất dũng mãnh, kiêu hãnh và cư-
ờng tráng của nam giới. Những vật trang sức 
chế tác từ đá, mã não và thủy tinh có thể nói 
là những tinh hoa đặc sắc nhất mà nền văn 
minh này sáng tạo ra và được phổ biến khắp 
vùng Đông Nam Á [2]. 
Thời gian về sau, mặc dù nghề chế tác 
thủy tinh có từ rất sớm, nhưng không được 
phát triển. Tới thế kỷ XIX, tranh kính xuất 
hiện và phát triển tại Việt Nam. Lúc này, sự 
xuất hiện và phát triển tranh kính được chia 
theo 3 khu vực với 3 thể loại tranh kính biêu 
tiểu khác nhau. 
Tranh kính nhà thờ 
Khi Công giáo đến Việt Nam, các linh 
mục tới truyền giáo và cho xây dựng nhà thờ, 
lúc đó, tranh kính màu được sử dụng trong 
một số nhà thờ Công giáo cuối thế kỷ XIX, 
một số nhà thờ Công giáo đầu tiên có các 
trang trí bằng tranh kính màu như: Nhà thờ 
Tân Định, xây dựng năm 1876 (Nhà thờ 
Thánh Tâm chúa Giêsu, Tân Định) - nhà thờ 
Công giáo tại thành phố Hồ Chí Minh và 
thuộc giáo xứ Tân Định. Sau đó tranh kính 
được sử dụng trong Nhà thờ Đức Bà (xây 
56 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
dựng năm 1880) (hình 9), Nhà thờ Lớn Hà 
Nội (xây dựng năm 1887)... 
Hình 9. Cửa sổ kính màu nhà nguyện Đức 
Mẹ, nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn, Việt 
Nam (nguồn wikipedia.org) 
Nội dung trong các bức tranh kính 
màu ở Nhà thờ đa phần đều nói về Chúa 
nhưng “những đặc điểm của nhân vật mang 
nét đặc trưng của người Việt như vóc dáng, 
khuôn mặt, búi tóc đến trang phục, nón lá, 
cảnh quan. Sự thay đổi về hình ảnh này đem 
lại cảm giác gần gũi, thân thiện đối với giáo 
dân Việt Nam và cho thấy dấu hiệu Việt hóa” 
[1]. 
Tranh gương cung đình Huế (hình 
10, 11) 
Hình 10. Tranh gương cùng đình Huế, vẽ 
cảnh vườn Thiệu Phương, cung đình Huế 
(nguồn wikipedia.org) 
 Theo nhà nghiên cứu Thái Văn Kiểm, 
tác giả cuốn Cố đô Huế (cùng lời truyền của 
một số người cao tuổi ở Huế) nhận định: 
Tranh gương cung đình Nguyễn đa phần được 
các Vua triều Nguyễn đặt hàng vẽ từ Trung 
Quốc. Nguyên là vua Thiệu Trị (1841-1847) 
có tập thơ Thần kinh nhị thập cảnh, vịnh 20 
cảnh đẹp của đất Huế, đã gửi các bài thơ này 
qua Trung Quốc đặt vẽ. Một bài thơ này được 
thể hiện thành một bức tranh gương, sau đó 
mới mang trở về kinh đô Huế, treo ở tại các 
miến điện [3]. Mặc dù vậy, nhưng các tác 
phẩm tranh gương đó lại mang trong mình 
những nội dung và các yếu tố đặc trưng riêng 
của nền nghệ thuật Cố đô Huế 
Hình 11. Tranh gương cùng đình Huế, vẽ 
cảnh hồ Tịnh Tâm, cung đình Huế (nguồn 
wikipedia.org) 
Tranh kiếng Nam Bộ 
Tới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, 
một bộ phận người Quảng Đông (Trung 
Quốc) di dân đến mảnh đất Nam Bộ sinh sống 
và lập nghiệp, họ đã mở các cửa tiệm buôn 
bán kiếng, với các loại kiếng tráng thủy tinh 
làm gương soi, kiếng khuôn cửa tủ, khung cửa 
chớp, ô cửa thoáng... theo thời gian cùng với 
sự phát triển của đời sống xã hội đã ra đời 
dòng tranh kiếng Nam Bộ. Tranh kiếng Nam 
Bộ mang trong mình những nét đặc sắc riêng 
với ba dòng nổi tiếng, đó là: tranh kiếng Chợ 
Lớn (Sài Gòn); tranh kiếng Lái Thêu (huyện 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 57 
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương), và dòng 
tranh kiếng Chợ Mới (An Giang) [4]. 
Đời sống người dân Nam Bộ lúc đó 
gắn liền với sông nước và đa phần thờ Phật, 
cho nên các bức tranh kiếng lúc bấy giờ hòa 
quyện được cả yếu tố dân gian và tôn giáo. 
Tranh kiếng có nhiều chủng loại: Tranh thờ 
tổ tiên, tranh thờ Thần, Phật, tranh chúc tụng, 
tranh cảnh vật trang trí nhà ở...Tranh kiếng 
lúc này đã đáp ứng như cầu thờ cũng, tín 
ngường và thẩm mỹ của người dân và trở 
thành những tác phẩm nghệ thuật dân gian 
không thể thiếu trong những gia đình Nam Bộ 
(hình 12) 
Hình 12. Bức tranh kiếng Cửu Thiên Huyền 
Nữ, phường Lái Thiêu, Bình Dương (nguồn 
wikipedia.org) 
Những bức tranh kiếng thờ tổ tiên, 
Thần Phật luôn được người dân Nam Bộ coi 
trọng, nó vừa thể hiện rõ nét tín ngưỡng hiếu 
kính, tâm linh ấm áp, vừa tạo nên không gian 
thẩm mỹ đẹp cho mọi căn nhà ở Nam Bộ. 
Tranh kiếng thờ tổ tiên Nam Bộ, ngoài bộ chữ 
tấm ngang, câu đối hai bên, còn có một bức 
tranh kiếng khổ lớn, được treo tại vị trí thờ 
cúng tổ tiên, nhưng không treo quá cao như 
tục lệ của người miền Bắc, miền Trung. Bộ 
tranh kiếng thờ được người dân Nam Bộ treo 
ở vị trí vừa phải, vừa mong muốn tỏ lòng hiếu 
kính với tổ tiên, vừa mong muốn tổ tiên Thần 
Phật luôn gần gũi chở che con cháu. Ta có thể 
nhận thấy hình thức treo tranh thờ miền Bắc 
và miền Trung Việt Nam có điểm khác biệt 
so với tục treo tranh kiếng thờ của người dân 
Nam Bộ. Người dân miền Bắc và miền Trung 
treo tranh thờ cúng tổ tiên thường treo bộ 
Hoành phi (cuốn thư) - câu đối rất tôn 
nghiêm, uy nghi ngay tại gian giữa trung tâm 
của ngôi nhà, nhà thờ của dòng họ. Hoành phi 
là một bức thư họa (bức tranh được vẽ bằng 
chữ) được treo ngang phía trên của gian thờ, 
chữ viết trong hoành phi đều mang ý nghĩa ca 
tụng công đức của tổ tiên, những lời răn dạy 
của tổ tiên dành cho con cháu....Câu đối là 
một cặp câu đối xứng được treo ở hai cột hai 
bên gian thờ (hình 13), câu đối ghi lại giá trị 
đạo đức truyền thống của dòng họ, tổ tiên, ca 
ngợi công đức của các bậc tiên tổ, răn dạy 
cháu con đạo nghĩa làm người. Điểm khác 
biệt về cách bài trí và treo tranh này xuất phát 
từ sự chất phác, sự bình dị bao đời của người 
dân Nam Bộ, sự bình dị xuất hiện ngay cả 
trong cách thức tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên 
Thần Phật. 
Hình 13. Bộ tranh thờ, phường Lái Thiêu, 
Bình Dương (nguồn tác giả chụp) 
Những nghệ nhân, người thợ vẽ tranh 
kiếng nói chung, người vẽ tranh kiếng thờ nói 
58 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
riêng, mặc dù không được đào tạo bài bản qua 
trường lớp, chỉ được tiếp truyền lại từ đời 
trước đến đời sau bằng hình thức cha truyền 
con nối, tuy nhiên với cảm xúc chân thật, bình 
dị và tình yêu sâu sắc đối với nghề vẽ tranh 
kiếng, họ đã cho ra đời những bức tranh kiếng 
được chăm chút kỹ lưỡng từ từ nội dung đến 
hình thức, từ bố cục đến không gian, từ nét vẽ 
đến màu sắc rất độc đáo và đẹp đẽ. Với kỹ 
thuật tạo hình được nghiên cứu kỹ lưỡng, cân 
đối, bố cục chính phụ, to nhỏ thay đổi phong 
phú, khéo léo lồng ghép giữa con người với 
cảnh vật, đường nét mềm mại linh hoạt, nhịp 
điệu uyển chuyển, màu sắc rõ ràng khúc triết 
đã làm cho những bức tranh kiếng trở nên 
sống động, gần gũi, giản dị mà thanh cao. Có 
thể họ chưa nắm được tường tận về ngôn ngữ 
hội hoạ, tính thẩm mỹ, tuy nhiên ở trong tâm 
của họ dường như luôn tồn tại ý thức tâm linh 
và triết lý về tín ngưỡng thờ cúng để từ đó họ 
đã truyền tải vào các tác phẩm tranh kiếng với 
nội dung thờ cúng với tổ tiên, với Thần Phật, 
với những người đã mất một cách hết sức độc 
đáo và sâu sắc. 
Dù đã xuất hiện và phát triển ở Việt 
Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do nước ta 
những năm này trải qua chiến tranh, phải 
gánh chịu sự nghèo đói, lạc hậu và hậu quả 
của chiến tranh. Tranh kính không được phát 
triển mạnh. Phải tới sau năm 1975, khi Việt 
Nam thống nhất đất nước, nền kinh tế bắt đầu 
phục hồi và phát triển, tranh kính được tiếp 
tục sử dụng, nhưng chỉ ở hình thức nhỏ. Đến 
thế kỷ XX, những năm 1991, 1994, tại Việt 
Nam mới thành lập một số nhà máy chế tạo 
kính màu để đáp ứng nhu cầu của xã hội về 
trang trí tranh kính màu trong nội thất. Và 
tranh kính màu được sử dụng ở nhiều công 
trình khác nhau như: khách sạn, nhà hàng, 
quán café, hay nhà ở... 
3. Kết luận 
Mặc dù không phải là loại hình nghệ 
thuật cổ và lâu đời của nước Việt nhưng quá 
trình du nhập và phát triển tại Việt Nam đã 
chứng minh tranh kính nghệ thuật đã có sự 
đóng góp cho nền nghệ thuật nước nhà. Hiện 
nay, tranh kính của Việt Nam đang phát triển 
với nhiều chủng loại, sử dụng trong nhiều loại 
hình công trình khác nhau và mang trong 
mình bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam. 
Tài liệu tham khảo: 
Tiếng Việt 
1. Huỳnh Quang Cường (2015), Mỹ thuật ứng 
dụng trên con đường tìm về bản sắc Việt, Nhà 
xuất bản Văn hóa văn nghệ. 
2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. Văn hóa Sa 
Huỳnh. 
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3
%B3a_Sa_Hu%E1%BB%B3nh. 
3. Nguyễn Tiến Cảnh (1992), Mỹ thuật Huế. Viện 
Mỹ Thuật - Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế 
xuất bản. 
4. Nguyễn Thị Bích Liễu (2018), Nghệ thuật 
tranh kiếng thờ và sự hiếu kính của người dân 
Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo “Triết lý nhân sinh của 
người dân Nam Bộ”, Trường Đại học An Giang, 
Nhà xuất bản Cần Thơ. 
Tiếng Anh 
1. APA citation. Coleman, C. (1912). Stained 
Glass. In The Catholic Encyclopedia. New York: 
Robert Appleton Company. Retrieved October 
15, 2018 from New Advent: 
2. MLA citation. Coleman, Caryl. "Stained 
Glass." The Catholic Encyclopedia. Vol. 14. New 
York: Robert Appleton Company, 1912. 15 Oct. 
2018 
<
>. 
3. Discovering stained glass - John Harries, 
Carola Hicks, Edition: 3 – 1996 
4. 
glass/ 
Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Mở Hà Nội 
Email: nguyenbichlieu@hou.edu.vn 

File đính kèm:

  • pdfkinh_ghep_mau_va_nghe_thuat_tranh_kinh.pdf