Hợp tác văn hóa Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1995-2005
Quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ mang đậm dấu ấn lịch sử và thời đại. Từ khi bình thường hóa quan hệ
ngoại giao (1995), quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ có những bước phát triển tích cực. Trong giai đoạn
1995-2005, các lĩnh vực chính trị và kinh tế đóng vai trò chủ đạo, nhưng những hoạt động hợp tác và
giao lưu văn hóa có những tác động tích cực đến mối quan hệ hai nước. Thậm chí, hoạt động ngoại giao
văn hóa góp phần quan trọng xây dựng “lòng tin” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, thúc đẩy các lĩnh vực khác
phát triển.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Hợp tác văn hóa Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1995-2005", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hợp tác văn hóa Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1995-2005
u hình ảnh và con người Việt Nam trên một số tờ báo lớn ở Mỹ. Nhìn chung, hợp tác tác văn hóa trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình giữa Việt Nam và Hoa Kỳ giai đoạn 1995-2005 đã bắt đầu nhưng còn nhỏ lẻ và chưa có những sản phẩm thực sự ấn tượng. Trong lĩnh vực điện ảnh, nhiều bộ NGUYỄN THỊ LỆ MỸ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 59 phim đã ra đời với sự tham gia của Việt kiều tại Mỹ và các diễn viên Việt Nam, như Ba mùa (Three Seasons) của đạo diễn Việt kiều Mỹ Tony Bùi. Bộ phim đạt hai giải từ khán giả và ban giám khảo tại Liên hoan phim Sundance. Ba mùa theo lý giải của Tony Bùi là mùa nắng, mùa mưa và mùa hi vọng. Đây là bộ phim Mỹ đầu tiên hợp tác với Việt Nam và được quay hoàn toàn tại Việt Nam. Từ năm 2000, làn sóng các đạo diễn Việt kiều từ Mỹ về nước để làm phim trở nên mạnh mẽ. Đặc biệt, đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh đã làm đạo diễn và viết kịch bản cho bộ phim đình đám Mùa len trâu (Buffalo Boy). Bộ phim Mùa len trâu được khởi quay vào tháng 9/2003 với sự tham gia của Hãng phim Giải phóng (Việt Nam), 3B Productions (Pháp) và Novak (Bỉ). Vào năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival - ViFF) lần đầu tiên được tổ chức ở vùng Little Saigon, California, Hoa Kỳ. Sau đó, Đại hội được tổ chức hai năm một lần. Đây là đại hội điện ảnh duy nhất dành riêng cho các nhà làm phim gốc Việt trên toàn thế giới do Hội Văn học Nghệ thuật Việt Mỹ (Vietnamese American Arts and Letters Association - VAALA) và Hội Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam (Vietnamese Language and Culture - VNLC) tổ chức. Ngoài những nhà làm phim Việt kiều, một số đạo diễn trong nước như Pham Nhuệ Giang hay Bùi Thạc Chuyên cũng đem phim tới tham dự. ViFF thường được diễn ra tại Đại học California, Irvine và các địa điểm quanh vùng Little Saigon, California, Hoa Kỳ. So với lĩnh vực phát thanh - truyền hình, hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong lĩnh vực điện ảnh đạt nhiều thành tựu hơn. Các hoạt động diễn ra với quy mô lớn, thu hút nhiều đạo diễn, diễn viên của cả hai nước tham gia. Nhiều tác phẩm điện ảnh hợp tác giữa hai nước tạo được tiếng vang, góp phần tăng sự hiểu biết giữa lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ. 2.2. Hợp tác giao lưu trong lĩnh vực văn học Vào năm 2000, trong chuyến thăm chính thức của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đến Việt Nam - chuyến thăm đầu tiên của người đứng đầu Hoa Kỳ đến Việt Nam sau năm 1975, ông đã gây ấn tượng khi nhắc về những tiếp xúc văn hóa đầu tiên giữa hai nước: “Hai thế kỷ trước đây, trong thời kỳ lập quốc của Hoa Kỳ, chúng tôi đã vượt đại dương tìm đối tác thương mại, và một trong những quốc gia đầu tiên mà chúng tôi gặp được là Việt Nam. Đặc biệt là một trong những quốc phụ của chúng tôi, ông Thomas Jefferson, đã thử tìm lúa giống của Việt Nam để mang về trồng tại trang trại của ông ở Virginia từ 200 năm trước” (Báo Nhân dân, 2000, tr.1). Tại một bữa tiệc trong chuyến thăm này, Tổng thống Bill Clinton đã đọc hai câu trong Truyện Kiều của Việt Nam: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân (Just as the lotus wiltsm, the mums bloom forth/ Time softens grief, and the winter turns to spring)”. Đây là câu thơ số 1795 và 1796 trong Truyện Kiều (The Tale of Kiều), ngụ ý một năm trôi qua bằng cách miêu tả sự chuyển động của thiên nhiên, đất trời với hình ảnh đặc trưng của bốn mùa: sen tàn - mùa hạ qua, hoa cúc nở - mùa thu tới, hết thu chuyển sang đông, mùa đông ngày ngắn đêm dài, kết thúc mùa đông là mùa xuân đang đến. Tổng thống Bill Clinton đã giải thích ý nghĩa câu trích với mong muốn hai nước “gác lại quá khứ, hướng đến tương lai”. Có thể nói, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm văn học SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 60 Việt Nam được quan tâm tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ. Trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ, những câu Kiều như “cầu nối văn hóa” khi vừa gửi thông điệp từ Hoa Kỳ, vừa là nét văn hóa đặc sắc của người Việt Nam (Bùi Mạnh Nhị, 2018). Bên cạnh Truyện Kiều, một số tác phẩm văn học Việt Nam được công chúng Mỹ quan tâm có thể kể đến là Nhật Ký trong tù (Prison Diary) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (The Sorrow of War) của nhà văn Bảo Ninh. Mặc dù không phải tác phẩm văn học nhưng Nhật ký Đặng Thùy Trâm (Last night I dreamed about Peace) cũng đã tạo được cơn sốt tại Mỹ nhờ nội dung và hành trình tìm về chủ nhân cuốn nhật ký của một cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Một ấn phẩm thiếu nhi khá được yêu thích chính là Dế Mèn phiêu lưu ký (Diary of a Cricket), hay giọng văn trong trẻo của Nguyễn Nhật Ánh trong Cho tôi một vé đi tuổi thơ (Ticket to Childhood) và Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Open the window, eyes closed) của tác giả Nguyễn Ngọc Thuần cũng nhận được sự chú ý của đọc giả Mỹ, đặc biệt là cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, các tác phẩm văn học kinh điển của Hoa Kỳ liên tục được dịch thuật và ấn hành. Có thể kể đến các tác phẩm như tiểu thuyết Ông già và Biển cả (The Old Man and the Sea) của Ernest Hermingway, tiểu thuyết tình yêu Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind) của Margaret Mitchell, Đại gia Gatsby (The Great Gatsby) của F. Scott Fitzgerald, v.v. Ngoài ra, một số tác phẩm là tiểu thuyết hư cấu của các nhà văn Mỹ thịnh hành vào đầu thế kỷ XXI đã được độc giả Việt yêu thích như nhà văn Dan Brown với tác phẩm gây tranh cãi Mật mã Da Vince (The Da Vinci Code) xuất bản tại Mỹ năm 2003 được dịch và xuất bản lần đầu tại Việt Nam năm 2005, Thiên thần và ác quỷ (Angles and Demons) xuất bản tại Mỹ năm 2000 được dịch và xuất bản lần đầu tại Việt Nam năm 2007, Điểm dối lừa (Deception Point) xuất bản tại Mỹ năm 2001 được dịch và xuất bản lần đầu tại Việt Nam năm 2006; Pháo đài số (Digital Fortress) xuất bản tại Mỹ năm 1998 được dịch và xuất bản lần đầu tại Việt Nam năm 2006. Đáng chú ý, các ấn phẩm trên liên tục được cập nhật, dịch mới và xuất bản thường xuyên ở hai nước. Có thể thấy, sự giao lưu văn học như trên là minh chứng mạnh mẽ trong việc trao đổi văn hóa, góp phần thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, hàn gắn vết thương chiến tranh tạo điều kiện cho quan hệ hai nước phát triển. 2.3. Hợp tác giao lưu trong lĩnh vực nghệ thuật Từ năm 1988, họa sĩ David Thomas đã thành lập một tổ chức phi lợi nhuận có tên là Hiệp Hội Nghệ thuật Đông Dương (Indochina Arts Partnership - IAP) nhằm kết nối và thúc đẩy giáo dục, trao đổi nghệ thuật. Kể từ ngày thành lập, IAP đã hỗ trợ gần 100 nghệ sĩ và các nhà quản lý văn hóa nghệ thuật từ Việt Nam tới Hoa Kỳ và ngược lại, tham dự những chương trình trao đổi ngắn hạn. Hoạt động của IAP gồm hai nội dung chính: (i) thiết lập việc kết nghĩa giữa Maine College of Art với trường Mỹ thuật Hà Nội, Trường Massachusette College of Art với Trường Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Rhode Island School of Design với Trường Mỹ thuật Huế; (ii) thúc đẩy và thực hiện những chương trình trao đổi nghệ sĩ. Những thành tựu của IAP bao gồm NGUYỄN THỊ LỆ MỸ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 61 những triển lãm giới thiệu các nghệ sĩ Việt Nam tới công chúng Mỹ sau chiến tranh như triển lãm “Nhìn từ hai phía” (As Seen From Both Sides, American And Vietnamese Artist Look At The War) tổ chức năm 1991, “Bảy đại danh họa” (Seven Pillars - The National Treasure Artists of Vietnam) tổ chức năm 1994, và “Nghìn trùng xa cách” (An ocean apart: contemporary Vietnamese art from the United States and Vietnam) tổ chức năm 1995. IAP kết nối và trao tặng 38 bức tranh in của danh họa Francisco Goya trong bộ sưu tập của Tiến sĩ Hans Guggenheim cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, tặng những tư liệu của Henry Prunier cho Bảo tàng Lịch sử Quân đội, phối hợp cùng hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức Trung tâm đồ họa CEGA (Hanoi Center for Excellence in Graphic Arts), tặng máy in khắc và in lithography press cho trung tâm và cho Đại học Mỹ thuật Huế, tổ chức các cuộc trao đổi giữa những nghệ sĩ in ấn bậc thầy ở Mỹ với nghệ sĩ ở Việt Nam, kết nối các trường mỹ thuật ở Mỹ và Việt Nam qua những chương trình kết nghĩa. Đến thăm Việt Nam vào năm 1987, David Thomas bị ấn tượng mạnh bởi những bức ảnh chân dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, đây là nguyên nhân thôi thúc David Thomas sáng tác hơn 50 tác phẩm hội họa về Hồ Chí Minh và cộng tác cùng một người bạn cho ra đời tại Hoa Kỳ một tác phẩm mang tên “Chân dung Hồ Chí Minh” vào năm 2000. Không chỉ vậy, một tổ chức phi lợi nhuận khác - Meridian International Center tại Washington đã tổ chức triển lãm “A Winding River: The Journey of Contemporary of Art in Vietnam” tại bảy viện bảo tàng ở Mỹ vào năm 1997-1998 (The New York Times, 1999, tr.19). Ở Hoa Kỳ, Tạp chí Asian Arts News thường xuyên đưa tin về giới mỹ thuật tại Việt Nam. Từ năm 1995, nhiều đoàn nghệ thuật của Việt Nam và Mỹ đã thực hiện các chuyến đi biểu diễn giao lưu ở hai nước. Các nhóm nghệ sĩ múa rối Hà Nội, các đoàn ca nhạc dân tộc truyền thống... đã sang Mỹ biểu diễn, góp phần quảng bá bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam, hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè Mỹ và bạn bè quốc tế. Trong khi đó, các nhóm nghệ sĩ Mỹ sang biểu diễn ở Việt Nam khá đa dạng với nhiều thể loại nhạc Hip-hop, jazz... cũng giúp người Việt hiểu thêm về các loại hình nghệ thuật của Hoa Kỳ. Việt Nam và Hoa Kỳ cũng tổ chức nhiều cuộc triển lãm giới thiệu về đất nước, con người và văn hóa hai nước. Đáng chú ý có cuộc triển lãm “Dòng sông uốn khúc - Hành trình nghệ thuật Việt Nam đương đại” (4/1998) tại Mỹ và “Viễn dương - Mỹ thuật Mỹ bên thềm thế kỷ 21” (8/1999) tổ chức tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, giới thiệu hàng trăm tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của các họa sĩ Việt Nam và Mỹ cho công chúng của hai nước. Từ tháng 3/2003, Việt Nam phối hợp với Hoa Kỳ tổ chức cuộc triển lãm “Cuộc hành trình của con người, tinh thần và linh hồn Việt Nam” tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ. Tiếp đó, tháng 7/2004, hai nước lại phối hợp tổ chức triển lãm “Truyền thống và đổi thay: Nghệ thuật Việt Nam ngày nay” tại thủ đô Washington. Hai cuộc triển lãm này giúp cho người dân Mỹ hiểu biết nhiều hơn về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam. Nhân kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, nhiều hoạt động trao đổi nghệ thuật diễn ra sôi nổi. Thông qua Đại sứ quán Hoa Kỳ, nhóm nhảy Hip-hop nổi tiếng của Mỹ là SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 62 Havikoro đến thăm và biểu diễn tại Việt Nam trong chương trình “Đêm hội HAVIKORO” (4/2005); vũ đoàn Battery Dance từ New York sang biểu diễn và tổ chức các buổi hội thảo về nghệ thuật múa ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (5/2005); dàn nhạc jazz San Francisco gồm 40 nghệ sĩ chơi nhạc jazz hàng đầu nước Mỹ đã đến biểu diễn tại Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh (11/2005). Các hoạt động trao đổi, giao lưu văn hóa – nghệ thuật giữa hai nước đã thu hút được một lượng đông đảo công chúng của hai nước tham gia. Những hoạt động này đã tăng cường sự giao lưu giữa nhân dân hai nước và trở thành cầu nối hữu nghị làm cho hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ xích lại gần nhau hơn. 3. Kết luận Thực tế cho thấy, Việt Nam và Hoa Kỳ có những khác biệt về văn hóa. Việt Nam vốn thuộc về nền văn hóa phương Đông, còn Hoa Kỳ vốn là một phần của nền văn hóa phương Tây. Thêm nữa, thời kỳ sau chiến tranh Việt Nam, tâm lý nghi kỵ ở hai nước vẫn còn rất lớn trong khi những hiểu biết về nhau còn rất hạn chế, do đó hai nước không tránh khỏi những khó khăn trong hợp tác với nhau trong lĩnh vực văn hóa. Trên cơ sở đó, trong quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, vấn đề trao đổi và giao lưu văn hóa được cả hai nước chú trọng. Trong giai đoạn 1995-2005, hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển quan hệ giữa hai nước. Mức độ trao đổi và giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ngày càng tăng theo thời gian và đã thu hút được đông đảo công chúng của hai nước tham gia. Một mặt, hợp tác văn hóa có thể gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau trên tinh thần tôn trọng, thân thiện và yêu chuộng hòa bình. Mặt khác, ngoại giao văn hóa có thể xoa dịu nỗi đau chiến tranh trong cộng đồng và nhân dân hai nước. Nhờ sự hiểu biết sâu và rộng hơn, hai quốc gia đã thúc đẩy tình hữu nghị và góp phần đảm bảo hòa bình, an ninh của khu vực. Từ đó, góp phần định hình vị trí Việt Nam trên trường quốc tế, thu hút đầu tư thương mại, du lịch, dịch vụ từ Hoa Kỳ đến Việt Nam. Nói cách khác, hợp tác văn hóa giữa Việt Nam - Hoa Kỳ cũng đã góp phần thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực chính trị và kinh tế giữa hai nước phát triển. Hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay được xem là một trong những trụ cột của quan hệ song phương, vun đắp tâm hồn và trí tuệ cho các thế hệ tương lai của hai nước và họ sẽ trở thành cầu nối hữu nghị làm cho hai quốc gia Việt - Mỹ ngày càng xích lại gần nhau hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bùi Mạnh Nhị. (2018). Truyện Kiều trong diễn văn của các Tổng thống Mỹ. Tạp chí Văn học, 1, 29-38. Bùi Thị Phương Lan (2011). Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 1994-2010. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Hà Nội: NXB Sự thật. NGUYỄN THỊ LỆ MỸ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 63 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. Lê Bá Thuyên. (1997). Hoa Kỳ cam kết và mở rộng. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Nguyễn Thiết Sơn (chủ biên). (2002). Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Quỳnh Mai. (2014, 05/7). Ô cửa sổ nhìn ra nước Mỹ. Quốc tế, https://baoquocte.vn/o-cua- so-nhin-ra-nuoc-my-5844.html [truy cập ngày 22/7/2019]. The New York Times. (1999). Exhibit of Vietnamese Art Rouses Immigrant Anger. The New York Times, July 1999. Báo Nhân dân (2000, 18/11). Toàn văn Bài Diễn văn của Tổng thống Clinton. Báo Nhân dân. Trần Bá Khoa. (2008). Thế giới đơn cực hay đa cực? Cộng sản, 788, 105-107. U.S. State Department (1956). United States Information and Education Exchange Act of 1948, Public Law 402. In The United States Statutes at Large, Vol. 62. Washington D.C.: Government Printing Office. Vũ Khoan. (1995). An ninh, phát triển và ảnh hưởng trong hoạt động đối ngoại. Trong? Bộ Ngoại giao. Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. Ngày nhận bài: 08/9/2020 Biên tập xong: 15/02/2021 Duyệt đăng: 20/02/2021
File đính kèm:
- hop_tac_van_hoa_viet_nam_hoa_ky_giai_doan_1995_2005.pdf