Hợp tác và liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực cho ngành Công nghiệp gỗ
Trong hai thập kỷ gần đây, xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ từ Việt Nam tăng
trưởng liên tục trên 10% mỗi năm, đặc biệt năm 2019 tăng 18,5%, làm cho kim ngạch
xuất khẩu gia tăng thêm gần 1,8 tỷ USD so với năm trước và đạt giá trị 11,2 tỷ USD.
Với đà tăng trưởng bền vững như hiện nay, ngành công nghiệp gỗ Việt Nam đang
hướng tới mục tiêu xuất khẩu 20 tỷ USD vào năm 2025 và biến Việt Nam thành trung
tâm sản xuất đồ gỗ nội thất hàng đầu của thế giới. Đây là con số rất ấn tượng, không
chỉ với trong nước mà còn với quốc tế. Xin nêu một ví dụ: Suốt 50 năm qua, từ
những năm 70 của thế kỷ trước, các nước Châu Phi cùng đeo đuổi “giấc mơ giá trị gia
tăng” từ rừng, nhưng tại Hội nghị gỗ nhiệt đới tổ chức ở Togo, Tây Phi, cuối năm
2019, họ đã cay đắng thừa nhận rằng tổng thu từ xuất khẩu lâm sản, chủ yếu là gỗ
tròn và gỗ xẻ, của họ không bằng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của riêng một
Việt Nam!. Cũng trong năm 2019, Việt Nam đã chi trên 400 triệu USD nhập khẩu 1,3
triệu m3 gỗ từ các nước Châu Phi để đáp ứng nhu cầu gỗ cứng nhiệt đới cho xây
dựng chùa chiền, nhà cửa, làm đồ mộc theo thị hiếu của người Việt, cho phép chúng
ta có thể đóng cửa rừng tự nhiên. Điều đáng nói là số ngoại tệ hơn 400 triệu USD mà
Việt Nam bỏ ra để nhập khẩu gỗ Châu Phi cũng chỉ tương đương với số tiền thu được
từ xuất khẩu trên 3 triệu tấn viên nén năng lượng sinh khối tận dụng mùn cưa, dăm
bào và gỗ cành ngọn thu gom sau khai thác rừng trồng. Qua đây chúng ta có thể thấy
công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến theo chiều sâu, quan trọng biết chừng nào,
khi một quốc gia muốn thoát nghèo, muốn làm giàu, và muốn đeo đuổi khát vọng
hùng cường như Chính phủ Việt Nam đang quyết liệt đeo đuổi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hợp tác và liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực cho ngành Công nghiệp gỗ
HỢP TÁC VÀ LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP GỖ Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam 1. NGÀNH CÔNG NGHỆ GỖ VÀ ẤN TƯỢNG TĂNG TRƯỞNG Trong hai thập kỷ gần đây, xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ từ Việt Nam tăng trưởng liên tục trên 10% mỗi năm, đặc biệt năm 2019 tăng 18,5%, làm cho kim ngạch xuất khẩu gia tăng thêm gần 1,8 tỷ USD so với năm trước và đạt giá trị 11,2 tỷ USD. Với đà tăng trưởng bền vững như hiện nay, ngành công nghiệp gỗ Việt Nam đang hướng tới mục tiêu xuất khẩu 20 tỷ USD vào năm 2025 và biến Việt Nam thành trung tâm sản xuất đồ gỗ nội thất hàng đầu của thế giới. Đây là con số rất ấn tượng, không chỉ với trong nước mà còn với quốc tế. Xin nêu một ví dụ: Suốt 50 năm qua, từ những năm 70 của thế kỷ trước, các nước Châu Phi cùng đeo đuổi “giấc mơ giá trị gia tăng” từ rừng, nhưng tại Hội nghị gỗ nhiệt đới tổ chức ở Togo, Tây Phi, cuối năm 2019, họ đã cay đắng thừa nhận rằng tổng thu từ xuất khẩu lâm sản, chủ yếu là gỗ tròn và gỗ xẻ, của họ không bằng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của riêng một Việt Nam!. Cũng trong năm 2019, Việt Nam đã chi trên 400 triệu USD nhập khẩu 1,3 triệu m3 gỗ từ các nước Châu Phi để đáp ứng nhu cầu gỗ cứng nhiệt đới cho xây dựng chùa chiền, nhà cửa, làm đồ mộc theo thị hiếu của người Việt, cho phép chúng ta có thể đóng cửa rừng tự nhiên. Điều đáng nói là số ngoại tệ hơn 400 triệu USD mà Việt Nam bỏ ra để nhập khẩu gỗ Châu Phi cũng chỉ tương đương với số tiền thu được từ xuất khẩu trên 3 triệu tấn viên nén năng lượng sinh khối tận dụng mùn cưa, dăm bào và gỗ cành ngọn thu gom sau khai thác rừng trồng. Qua đây chúng ta có thể thấy công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến theo chiều sâu, quan trọng biết chừng nào, khi một quốc gia muốn thoát nghèo, muốn làm giàu, và muốn đeo đuổi khát vọng hùng cường như Chính phủ Việt Nam đang quyết liệt đeo đuổi. 2. CON ĐƯỜNG DOANH NGHIỆP GỖ VIỆT VÀ ĐANG ĐI Không phải ngẫu nhiên và cũng không phải một sớm một chiều, ngành công nghiệp gỗ đã có thể trở thành “con gà đẻ trứng vàng”. Con đường mà doanh nghiệp gỗ Việt đã và đang đi là con đường tiến hóa, bền bỉ, sáng tạo và cần nhiều bản lĩnh: Từ chế biến sản phẩm giá trị gia tăng thấp, đến giá trị giá tăng cao hơn; từ thụ động chờ đơn hàng để gia công cho người nước ngoài, tiến tới chủ động dần mẫu mã, thương hiệu; từ chỉ biết làm hàng ngoài trời giá rẻ, đến làm hàng nội thất giá trị gia tăng nhiều hơn; từ sản phẩm hàm lượng trí tuệ thấp đến hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hiện nay, chúng ta đang chế biến và xuất khẩu tất cả các nhóm hàng cho phép sử dụng toàn bộ sinh khối gỗ rừng trồng: Dăm gỗ làm bột giấy, Viên nén năng lượng 35 sinh khối, Ván nhân tạo các loại, Đồ mộc nội và ngoại thất và cả Không gian sống hiện đại và sang trọng, mang đậm thương hiệu Việt, trí tuệ Việt. Hiển nhiên ngành gỗ phát triển mạnh mẽ trong những năm qua là nhờ có “thiên thời, địa lợi”, nhờ sự tích hợp nỗ lực và sáng tạo của hàng ngàn doanh nhân, đặc biệt là nhờ hai lợi thế so sánh chủ yếu là nhân công và nguyên liệu gỗ giá rẻ. Hệ thống đào tạo về lâm nghiệp và công nghiệp chế biến gỗ đã góp phần tạo ra các lợi thế so sánh này. Nếu không có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, từ đội ngũ quản trị doanh nghiệp, đến các chuyên gia kỹ thuật – công nghệ và đội ngũ công nhân có tay nghề, công nghiệp gỗ Việt Nam đã không thể vươn lên vị trí số 1 ở Đông Nam Á, thứ hai ở Châu Á và thứ năm trên thế giới. Và nếu không có đào tạo thì Việt Nam cũng đã không thể trở thành “vương quốc của cây keo” với khoảng 3 triệu ha rừng trồng thương mại cung cấp trên 30 triệu m3 gỗ nguyên liệu mỗi năm. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, tổ chức tập hợp DN gỗ Việt đánh giá cao và tri ân đóng góp của hệ thống đào tạo lâm nghiệp và CBG, trong đó có Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam. 3. THỰC TRẠNG NHÂN LỰC TRONG NGÀNH GỖ Năm 2019, ngành gỗ có trên 5.600 doanh nghiệp (DN), trong đó có gần 1.000 DN có vốn đầu tư nước ngoài1 và gần 4.500 DN chế biến và xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ (G&SPG) tạo ra kim ngạch xuất khẩu 10,5 tỷ USD2. Nếu tính trung bình mỗi DN có 100 lao động, thì tổng số lao động trực tiếp là trên 560.000 người. Ngoài ra, còn phải kể đến hàng triệu lao động gián tiếp tham gia vào nhiều khâu trong chuỗi cung ứng và chế biến gỗ (CBG), trong đó có trên 1 triệu hộ trồng rừng. Mục tiêu ngành công nghiệp gỗ đặt ra là đạt giá trị xuất khẩu 20 tỷ USD vào năm 2025 và phải trả lời câu hỏi ngành gỗ phải làm gì để đạt mục tiêu này?, bao nhiêu lao động sẽ tham gia vào hoạt động sản xuất trong ngành? Có nhiều giải pháp, trong đó tăng hàm lượng trí thức thông qua thay đổi về công nghệ và thiết bị là việc DN phải làm cùng với liên kết đào tạo để có nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, trong số hơn nửa triệu người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất trong ngành gỗ, số lượng kỹ sư chế biến lâm sản và thiết kế nội thất chỉ chiếm 1- 2%. Lao động được đào tạo tay nghề bài bản cũng chỉ chiếm 20-30%, số còn lại là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo3. Nếu tính bình quân, công nghiệp CBG cần khoảng 7-10% nhân lực có trình độ đại học, thì toàn ngành cần trên 30.000 kỹ sư. Tuy nhiên, nhân lực có trình độ kỹ sư làm việc trong ngành còn rất ít, chỉ có khoảng trên 4 ngàn người, tương ứng với con số bình quân 1 kỹ sư/1 doanh nghiệp.4 1Báo cáo đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ Việt Nam 2019: ngoai-trong-nganh-go-viet-nam-2019-thuc-trang-va-mot-so-khia-canh-ve-chinh-sach-9098 2 Báo cáo đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ Việt Nam năm 2019: nuoc-ngoai-trong-nganh-go-viet-nam-2019-thuc-trang-va-mot-so-khia-canh-ve-chinh-sach-9098 3 4 36 4. CHẤT LƯỢNG VÀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG NGÀNH GỖ Việc sử dụng chủ yếu là lao động phổ thông đang làm cho chất lượng và năng suất lao động CBG của Việt Nam thấp, chỉ bằng 50% năng suất lao động của Philippines, 40% của Trung Quốc và 20% của Liên minh châu Âu (EU)5. Với năng suất lao động thấp, lương công nhân làm trong ngành CBG không thể cao, bình quân chỉ khoảng 2.112 đô la/người/năm6, thấp hơn nhiều so với giá nhân công của các nước như Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc Số liệu thống kê năm 2017 cho thấy chi phí bình quân mỗi giờ cho người lao động tại Việt Nam khoảng 2,55 đô la, trong khi đó tại Trung Quốc là 5.21 đô la.7 Khác biệt tiếp tục gia tăng và đến năm 2020 ước tính chi phí cho mỗi giờ lao động tại Việt Nam khoảng 2,99 đô la, trong khi tại Trung Quốc là 6,5 đô la. Lương tháng bình quân của mỗi lao động trong các doanh nghiệp dân doanh hoạt động trong các ngành sản xuất khoảng 5,6 triệu đồng/tháng, tương đương với dưới 250 đô la.8 Trong khối ASEAN, năm 2016 mức lương tháng tối thiểu cho mỗi lao động tại Việt Nam là 131 đô la, trong khi con số này tại Malaysia là 236 đô la (cao hơn 1,8 lần so với Việt Nam), Thái Lan 189 đô la (1,4 lần), Philippines là 318 đô la (2,4 lần)9. Mức lương tối thiểu của Việt Nam thậm chí còn thấp hơn mức lương tối thiểu của Campuchia. Lương tháng bình quân của mỗi lao động CBG của nước ta khoảng 5,5-6,5 triệu đồng. Chi phí lao động thấp đang là yếu tố chính thu hút đầu tư vào CBG, giúp ngành mở rộng quy mô sản xuất trong những năm qua. 5. NHỮNG THÁCH THỨC VỀ NGUỒN LAO ĐỘNG Trong nhiều năm qua, khi Việt Nam đang ở giai đoạn ban đầu của quá trình phát triển công nghiệp CBG, nhân công giá rẻ đã là là lợi thế tăng trưởng. Tuy nhiên, trong tương lai, lợi thế này sẽ dần triệt tiêu. Vậy phải làm thế nào để CBG tiếp tục phát triển khi không thể trông đợi vào lợi thế này được nữa?. Với hàng loạt các các hiệp định FTA đa phương và song phương đã và đang được ký kết, các rào cản thương mại sẽ dần bị loại bỏ, công nghệ phát triển ngày cao, chi phí vận tải giảm, chính sách đầu tư thông thoáng, xu hướng dịch chuyển đầu tư từ quốc gia có chi phí cao sang quốc gia có chi phí thấp và từ quốc gia có chi phí lao động cao sang quốc gia có chi phí lao động thấp sẽ trở nên phổ biến. Và khi đó sự cạnh tranh về lao động sẽ diễn ra, ở 2 cấp độ: (i) giữa các quốc gia với nhau, và (ii) giữa ngành gỗ và các ngành khác trong phạm vi mỗi quốc gia. 5 Tham luận: “Gắn kết đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ vào sản xuất chế biến gỗ và lâm sản” tại Hội nghị ngành gỗ phát triển nhanh và bền vững tháng 2/2019 6 countries.html 7 https://www.statista.com/statistics/744071/manufacturing-labor-costs-per-hour-china-vietnam-mexico/ 8 9 37 Hơn nữa, với mục tiêu ngành CBG trong 5 năm tới là đạt kim ngạch xuất khẩu 20 tỉ USD, nguồn nhân lực cần phải tăng nhiều về số lượng và chất lượng. Theo Hiệp hội gỗ và Mỹ nghệ TP. HCM, nhu cầu lao động ngành chế biến gỗ và lâm sản được dự báo đến năm 2020 cần khoảng 64.000 người có trình độ đại học, trên đại học và 266.860 công nhân kỹ thuật; đến năm 2025 cần khoảng 106.800 người có trình độ đại học, trên đại học và 445.200 công nhân kỹ thuật. Nhu cầu lao động khác trong lĩnh vực trồng rừng, chế biến trung gian và công nghiệp phụ trợ sẽ lớn hơn gấp 3 lần so với hiện tại. Đây là thách thức rất lớn đặt ra bài toán về nguồn nhân lực lao động chất lượng cao cho CBG. 6. HỢP TÁC VÀ LIÊN KẾT ĐỂ GÓP PHẦN GIẢI BÀI TOÁN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Có nhiều giải pháp được các chuyên gia đưa ra, trong đó nhấn mạnh vấn đề liên kết: liên kết không chỉ trong chuỗi cung mà còn là sự liên kết trong đào tạo để có đội ngũ nhân lực lao động chất lượng cao cho ngành công nghiệp gỗ, giúp CBG phát triển bền vững trong tương lai. Như đã đề cập, chất lượng lao động của ngành gỗ còn rất thấp, hiện tại hầu hết là lao động phổ thông. Đây là lực lượng lao động được doanh nghiệp đào tạo tại chỗ, không qua trường lớp, không có bài bản. Năng suất của ngành gỗ thấp một phần là do chất lượng lao động thấp. Lao động chất lượng thấp tạo ra các sản phẩm không có những đặc tính riêng biệt, do vậy giá trị gia tăng của sản phẩm cũng thấp. Để giải được bài toán trên, việc cần làm hiện nay là tạo ra đội ngũ lao động tay nghề cao và thông qua đó tạo ra các sản phẩm có hàm lượng tay nghề cao, tạo ra sự khác biệt của sản phẩm, từ đó nâng cao giá trị gia tăng. Để giải bài toán nguồn nhân lực cần phải: (1) Thiết lập kênh đạo tạo có thể kết nối trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo. Hiện ngành gỗ của Thái Lan bắt đầu áp dụng mô hình này, với việc Hiệp hội gỗ của Thái Lan, kết hợp với Phòng thương mại và Công nghiệp Thái và các trường đại học, bao gồm cả các trường mỹ thuật, trực tiếp thiết kế các chương trình đào tạo. Chương trình kết hợp giữa học lý thuyết (50% thời gian) tại các cơ sở đào tạo và thực hành tại các doanh nghiệp sản xuất (50% thời gian còn lại). Sau đào tạo, học viên bổ sung vào nguồn lao động có chất lượng cao, được đảm bảo việc làm phù hợp tại các cơ sở sản xuất. (2) Hiệp hội gỗ có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết đào tạo. Hiệp hội là nơi thu thập các yêu cầu của thị trường (thông qua doanh nghiệp thành viên) về nhu cầu và chất lượng lao động. Hiệp hội cũng thực hiện chức năng thu thập thông tin về nhu cầu của thị trường, quy mô của thị trường và xu hướng thay đổi thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa. Hiệp hội kết hợp với các cơ sở đào tạo trực tiếp tham gia 38 chuyển tải các nhu cầu và các thông tin vào thực tế thông qua việc vận hành các mô hình đào tạo. (3) Sự hỗ trợ của Chính phủ có vai trò rất lớn, đặc biệt trong việc cung cấp kinh phí cho vận hành mô hình. Ngoài ra, thông qua các kênh xúc tiến thương mại và nghiên cứu thị trường, Chính phủ cần tập hợp các nhu cầu, thị hiếu của thị trường xuất khẩu, từ đó chuyển tải các thị hiếu này vào các sản phẩm trong nước, thông qua các doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ sở đào tạo. Các kết nối giữa các bên sẽ tạo ra chuỗi liên kết đào tạo nguồn nhận lực, từ đó đảm bảo lao động đào tạo ra là lao động có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu tăng chất lượng sản phẩm. Lao động tay nghề cao sẽ tạo ra các sản phẩm mang lại sự khác biệt. Với cách làm như vậy, ngành gỗ kỳ vọng có thể tăng cường được chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra sự khác biệt sản phẩm và tiếp tục phát triển bền vững trong tương lai. 39
File đính kèm:
- hop_tac_va_lien_ket_giua_nha_truong_va_doanh_nghiep_de_phat.pdf