Hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong can thiệp sớm giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỉ
Tóm tắt. Can thiệp sớm giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỉ sẽ khó thành công nếu như thiếu đi
sự tham gia tích cực của với gia đình trẻ. Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi đánh giá
thực trạng nhận thức của 301 khách thể là cán bộ quản lí, giáo viên và cha mẹ trẻ về thực
trạng hợp tác giữa nhà trường và gia đình về nội dung, cách thức và hiệu quả của sự hợp tác
trong can thiệp sớm giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỉ hiện nay tại các cơ sở. Từ đó, chỉ ra các
biện pháp giúp cho sự hợp tác có hiệu quả hơn, giúp nhà trường thực hiện tốt hơn vai trò
của mình trong quá trình hợp tác với gia đình trẻ như: Xây dựng mối quan hệ với gia đình
trẻ; Phát hiện và khuyến khích những điểm mạnh của các thành viên trong gia đình; Tính
chuyên nghiệp của đội ngũ chuyên môn trước gia đình trẻ; Tư vấn kiến thức và hướng dẫn
kĩ năng can thiệp trẻ cho gia đình; Tăng cường giao tiếp trao đổi thông tin giữa gia đình và
nhà trường; Khuyến khích và thu hút gia đình trẻ tham gia các hoạt động cùng nhà trường.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong can thiệp sớm giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỉ
, mặc dù đây mới chỉ là những hình thức mang tính vi mô. 2.3. Biện pháp hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong CTSGD trẻ RLPTK Xây dựng mối quan hệ với gia đình trẻ CTSGD chỉ có thể thực hiện tốt khi có sự hợp tác chặt chẽ giữa các thành viên trong GĐ và giữa GĐ với nhà trường và các nhà chuyên môn khác. Để sự hợp tác được diễn ra thuận lợi, cần thiết phải xây dựng mối quan hệ tích cực với GĐ trẻ. Chúng ta nên tôn trọng cách sống và khả năng của GĐ trẻ. Cố gắng xây dựng tốt mối quan hệ tích cực với mọi thành viên khác trong GĐ, đặc biệt những thành viên có trách nhiệm CS&GD trẻ. Nhà chuyên môn và các cơ sở CTSGD nên để các thành viên trong GĐ trẻ tham gia vào quá trình CTSGD, ngay cả giai đoạn chẩn đoán, đánh giá, lên kế hoạch giáo dục cá nhân và thực hiện các hoạt động cụ thể. Hơn ai hết, họ là những người gần gũi hàng ngày với trẻ, đặc biệt là CM trẻ. Họ luôn hiểu trẻ nên có thể cung cấp nhiều thông tin cần thiết về trẻ và GĐ. Chỉ khi có sự tham gia của GĐ, chúng ta mới có được chương trình can thiệp phù hợp với khả năng, nhu cầu của trẻ và GĐ, điều này sẽ góp phần tăng thêm cơ hội thành công của CTSGD. Phát hiện và khuyến khích những điểm mạnh của các thành viên trong gia đình Trong vài năm trở lại đây, kiến thức cơ bản về trẻ RLPTK được GĐ trẻ tìm hiểu trên các trang web và phương tiện thông tin đại chúng, giúp cho họ sớm chấp nhận đứa con khuyết tật của mình, họ can đảm hơn để bắt đầu một hành trình dài và gian khó trong cuộc đời cùng với đứa con RLPTK của mình. 161 Đỗ Thị Thảo Ngoài việc tìm kiếm những tiềm năng phát triển của trẻ, những mặt mạnh của trẻ để CM được khuyến khích, chúng ta cũng cần lưu ý phát hiện những điểm mạnh của các thành viên trong GĐ trẻ. Tìm hiểu xem mỗi thành viên có thể hỗ trợ trẻ những gì (dù là rất nhỏ), họ có khả năng gì đặc biệt trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Qua đó khuyến khích họ phát huy và dành thời gian hỗ trợ trẻ, giúp trẻ phát triển tốt hơn tại GĐ, trường học và xã hội. Thể hiện tính chuyên nghiệp về chuyên môn của đội ngũ CTSGD trước GĐ trẻ GĐ trẻ luôn tin tưởng vào chuyên môn của đội ngũ CTSGD, dù ở cương vị GV hay chuyên gia. Họ nghĩ rằng, đội ngũ CTSGD có thể cho họ lời khuyên xác đáng, chẩn đoán hay giải thích về các vấn đề của trẻ. Đôi khi, những thành viên trong GĐ có thể gặp gỡ đội ngũ CTSGD bất cứ thời điểm, địa điểm nào đó để mong nhận được sự hỗ trợ của nhà chuyên môn. Mặc dù, nhận được sự tin tưởng của GĐ nhưng đội ngũ CTSGD không được chẩn đoán hay đánh giá sơ lược và qua loa rồi đưa ra lời khuyên cho GĐ. Nhà chuyên môn hợp tác với GĐ xây dựng một kế hoạch làm việc cho phù hợp và hiệu quả. Qua kế hoạch này, nhà chuyên môn cần tạo điều kiện để các nhà chuyên môn khác cùng tham gia vào tiến trình công việc. Người có thái độ chuyên môn tốt cần đảm bảo những nguyên tắc làm việc sau: 1) Không nên đưa ra lời khuyên về trẻ khi chưa đánh giá trẻ một cách cẩn thận; 2) Chỉ chia sẻ những thông tin mà mình đã chắc chắn; 3) Hãy thận trọng với kiến thức và kinh nghiệm mà mình có. Cho dù là một nhà chuyên môn có nhiều kinh nghiệm và thu thập được nhiều kiến thức về cách làm việc với GĐ của trẻ thì cũng thể không dễ dàng đưa ra lời khuyên cho GĐ. Nhà chuyên môn cần có thời gian, công cụ đánh giá và sự trợ giúp của các nhà chuyên môn khác. Mỗi trẻ RLPTK là một cá thể có đặc điểm và nhu cầu riêng. Vì vậy, kiến thức, kinh nghiệm làm việc với trẻ A không nên được áp dụng cứng nhắc cho trẻ B, tùy tình trạng của mỗi trẻ nhà chuyên môn nên linh hoạt trong cách tiếp cận và áp dụng đối với mỗi trẻ. Để trở thành một nhà tư vấn hay nhà chuyên môn sâu, chân chính và tạo được uy tín và sự tin cậy cho GĐ trẻ và cộng đồng xã hội, đòi hỏi nhà chuyên môn cần làm việc với thái độ nghiêm túc, khoa học, thực tế và thận trọng. Điều này giúp cho quá trình hợp tác với gia đình tin tưởng và hiệu quả hơn. Tư vấn kiến thức và hướng dẫn kĩ năng CTSGD trẻ RLPTK cho GĐ Hầu hết các GĐ có con RLPTK đều rất chán nản, thất vọng, họ lúng túng không biết xử lí thế nào, làm sao để giúp trẻ? Nhiều CM trẻ đem con chạy chữa khắp nơi, họ cho rằng chỉ có những chuyên gia mới cứu chữa được và họ muốn trăm sự nhờ cả vào các chuyên gia. Tư vấn kiến thức về CTSGD trẻ RLPTK cho GĐ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hỗ trợ tâm lí, tư vấn kiến thức, kĩ năng CTSGD trẻ cho GĐ trẻ, giúp họ thực hiện và phát huy hết khả năng trong việc giúp trẻ phát triển và hợp tác tốt hơn với nhà trường trong quá trình CTSGD trẻ RLPTK. Ở GĐ, CM trẻ có vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ trẻ phát triển về mọi mặt. Nhưng hầu hết các CM trẻ đều thiếu kiến thức về can thiệp trẻ RLPTK. Vì vậy, chuyên gia, giáo viên CTSGD cần cung cấp cho họ những kiến thức, kĩ năng về CTSGD trẻ. Từ đó phát huy vai trò của họ đối với sự phát triển của trẻ. Nội dung tư vấn kiến thức và kĩ năng CTSGD trẻ RLPTK rất đa dạng, tuy nhiên có thể chia thành 3 nhóm sau: 1) Những vấn đề chung bao gồm: CTSGD là gì? Lí do cần phải CTSGD, vai trò của CM trẻ, giáo viên, các thành viên khác trong CTSGD, những dịch vụ hỗ trợ trẻ và GĐ trẻ; 2) Những vấn đề về trẻ RLPTK: Khái niệm, đặc điểm, mức độ tật, khả năng nhu cầu, điểm mạnh điểm yếu, sở thích, đặc điểm tâm lí trẻ RLPTK. . . ; 3) Những vấn đề về can thiệp trẻ RLPTK tại GĐ: Sự hỗ trợ của các thành viên trong GĐ, điều kiện thực hiện CTSGD trẻ RLPTK tại GĐ, cách thức hỗ trợ trẻ về sinh hoạt, kĩ năng tự phục vụ, cách giao tiếp, cách chơi với trẻ tại GĐ... Để có thể tư vấn cho GĐ một cách có hiệu quả, GV phải luôn đặt ra mục tiêu phù hợp, lên kế hoạch làm việc với CM trẻ trẻ đồng thời phải linh hoạt để đáp ứng nhu cầu của trẻ. 162 Hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong can thiệp sớm giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỉ Nhà trường nên tiến hành tư vấn cho GĐ trẻ cần thực hiện theo các bước sau: Đánh giá trẻ tại gia đình, lên KHGDCN, tư vấn và hướng dẫn GĐ trẻ thực hiện theo kế hoạch. Mời các chuyên gia có kinh nghiệm bồi dưỡng kinh nghiệm về cách thức can thiệp trẻ RLPTK tại GĐ. Để thực hiện được điều này, cán bộ hướng dẫn GĐ cần phải có chuyên môn sâu và có kĩ năng hướng dẫn, tư vấn. Sẵn sàng lắng nghe và chia sẻ với GĐ trẻ. Các CM trẻ của trẻ phải sẵn sàng học hỏi để có kiến thức dạy trẻ tại GĐ. Tăng cường giao tiếp trao đổi thông tin giữa nhà trường và gia đình Giao tiếp được xem là nhân tố chủ chốt trong sự hợp tác giữa nhà trường -GĐ trẻ - chuyên gia. Thông qua giao tiếp để cung cấp thông tin cho nhau, cùng nhau giải quyết các vấn đề xung quanh việc giáo dục trẻ. Nhờ có trao đổi, những vấn đề nảy sinh như bất đồng về phương pháp, quan điểm có thể được tháo gỡ. . . Khi giao tiếp với GĐ trẻ, nhà trường không nên lấy tư cách “giảng dạy” cho các CM trẻ. Mặc dù, một số CM trẻ có trình độ học vấn thấp nhưng họ vẫn có khả năng hiểu các thông tin và họ nên được coi như các “đối tác quan trọng” trong quá trình giáo dục trẻ. Trong mối quan hệ hợp tác với GĐ trẻ, nhà trường không chỉ là người chủ động mà còn cần khuyến khích GĐ trẻ chủ động liên hệ với nhà trường. Nhà trường và GĐ có thể giao tiếp với nhau bằng cách: 1) Gọi điện: Nên sử dụng điện thoại như một phương tiện hữu hiệu để liên lạc với GĐ trẻ. GĐ trẻ sẽ cảm thấy rằng nhà trường quan tâm đến con mình, điều đó giúp họ an tâm hơn; 2) Gửi thông báo: Giao tiếp bằng văn bản cũng là một phương pháp hiệu quả. Khi dùng phương pháp này, nhà trường nên biết về trình độ văn hoá của CM trẻ và dùng ngôn ngữ phù hợp với trình độ của họ. Nếu GĐ trẻ không hiểu được những thông báo của nhà trường, đặc biệt nhà chuyên môn thì họ có thể cảm thấy rất lo sợ. Cần tạo cơ hội cho GĐ trẻ được phản hồi bằng văn bản hoặc bằng gọi điện; 3) Đến thăm GĐ trẻ: Là một cách tìm hiểu thông tin về cách ứng xử và hoàn cảnh GĐ của trẻ tốt nhất. Điều này sẽ mang lại cho nhà trường một lượng thông tin lớn để có thể hiểu trẻ hơn. Khi có thể, nhà trường cần tạo điều kiện để các GV đến thăm GĐ trẻ; 4) Tổ chức hội thảo: Nhằm cung cấp thông tin về CTSGD cho số lượng lớn các GĐ. Một số GĐ trẻ đi dự hội thảo chủ yếu để tìm kiếm thông tin từ các chuyên gia trong lĩnh vực CTSGD, trong khi một số khác chủ yếu mong muốn gặp và nói chuyện với những CM khác hoặc nói chuyện với GV và những người tham gia vào CTSGD cho trẻ. Hội thảo nên được tổ chức vào một thời điểm thuận tiện một GĐ có được nhiều người đến dự. Hội thảo nên được thông báo trước ít nhất 1 tháng. Khuyến khích và thu hút GĐ trẻ tham gia các hoạt động cùng nhà trường Đây là biện pháp cực kì hữu ích để tăng cường sự hợp tác giữa nhà trường và GĐ trẻ. Khi tham gia các hoạt động cùng các nhà chuyên môn, GĐ sẽ thực hiện được đúng vai trò của mình trong việc giáo dục trẻ. Sự chung sức của GĐ và nhà trường, cụ thể là các nhà chuyên môn sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong CTSGD trẻ RLPTK. GĐ trẻ có thể tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình tổ chức CTSGD và xây dựng KHGDCN với những mức độ và nội dung khác nhau. Họ có thể cùng các nhà chuyên môn đánh giá, xây dựng kế hoạch can thiệp cho trẻ cũng như thực hiện kế hoạch này. Ngoài ra, việc tham gia vào các hoạt động ngoại khoá của GĐ cũng làm cho sự hợp tác giữa nhà trường, GĐ và các nhà chuyên môn thêm khăng khít. Vì GĐ thường biết rõ về trẻ hơn là nhà trường nên những thông tin của họ có ý nghĩa rất lớn. CM là người tiếp xúc với trẻ trong một thời gian dài và mỗi ngày, thời gian trẻ ở nhà cũng nhiều hơn thời gian trẻ ở trường. Vì thế, nhà trường nên tận dụng những thông tin của GĐ trẻ trong quá trình xây dựng KHGDCN sao cho nó phù hợp với cuộc sống thực tại của trẻ. Vì vai trò của GĐ trẻ rất quan trọng nên nhà trường cần tiến hành một số bước để đảm bảo cha, mẹ hoặc cả hai người có thể tham gia vào cuộc họp xây dựng KHGDCN. Những bước này bao gồm: Thông báo trước về cuộc họp và đặt lịch họp sao cho thuận lợi với cả hai phía. Phía nhà trường nên làm cho GĐ trẻ cảm thấy yên tâm khi tham gia vào cuộc họp. CM có thể mời các 163 Đỗ Thị Thảo thành viên GĐ hoặc những người khác có hiểu biết về đứa trẻ đến tham gia cuộc họp xây dựng KHGDCN. Điều này sẽ giúp CM cảm thấy mình có người cùng chia sẻ và có thêm thông tin cho việc xây dựng kế hoạch. 3. Kết luận Muốn CTSGD trẻ RLPTK thành công nhất thiết phải coi trọng sự hợp tác giữa nhà trường và GĐ. Hơn nữa, đây cũng là cách thức để GV có thể cộng tác tối đa được với CM trẻ nhằm hỗ trợ, chia sẻ cho công tác chuyên môn của mình. Hợp tác với GĐ là một vấn đề hết sức quan trọng, có tính chất cấp bách, đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Đưa các mô hình lí thuyết lí tưởng của sự hợp tác giữa nhà trường và GĐ trong CTSGD vào thực tế không phải là điều dễ dàng, nó đòi hỏi sự chuẩn bị kĩ càng về nhận thức và thái độ của các bên. Với tư cách là người có trách nhiệm chính GV và nhà trường cần phải được trang bị những kiến thức, kĩ năng cần thiết để có thể thúc đẩy sự tham gia chủ động của CĐ trẻ trong quá trình CTSGD trẻ RLPTK. Đồng thời, khi giao tiếp với GĐ trẻ RLPTK, nhà trường cần tỏ thái độ tôn trọng, không kì thị và định kiến, hỗ trợ, động viên và chia sẻ với họ một cách chân thành. Để có được mối quan hệ hợp tác tốt với GĐ trẻ, nhà trường cần tìm hiểu kĩ về GĐ trẻ và nhận ra các thế mạnh của mỗi người về chuyên môn và năng lực để có thể hợp tác, thu hút họ tham gia có hiệu quả trong quá trình CTSGD trẻ RLPTK. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2008. Điều lệ trường mầm non (Ban hành kèm theo Quyết định số 14 /2008/QĐ-BGDĐT ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). [2] Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyết định số: 149/2006/QĐ - TTg về việc phê duyệt Dự án đầu tư chiến lược phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006 - 2015. [3] Đỗ Thị Thảo, 2011. Sự cần thiết của việc hợp tác giữa GV và CM trong can thiệp sớm trẻ tự kỉ lứa tuổi mẫu giáo. Kỉ yếu Hội thảo Khoa học “Giáo dục đặc biệt Việt Nam - Kinh nghiệm và triển vọng”. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [4] Trần Thị Lệ Thu, 2012. Đại cương can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật trí tuệ. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [5] Nguyễn Thị Hoàng Yến, 2013. Tự kỉ - Những vấn đề lí luận và thực tiễn. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [6] Nguyễn Thị Hoàng Yến, 2015. Nghiên cứu biện pháp can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỉ ở nước ta hiện nay và trong giai đoạn 2011- 2020. Đề tài khoa học cấp Nhà Nước, Mã số: ĐTĐL.2011-T/11. [7] Blair W. C., Lee I., Cho S., et al, 2011. Positive behavior support through family-school collaboration for young children with autism. Topics in Early Childhood Special Education, 31(1), 22–36. [8] Dillenburger K., Keenan M., Doherty A., et al, 2010. Living with children diagnosed with autistic spectrum disorder: parental and professional views. British Journal of Special Education, 37(1), 13–23. [9] Gabovitch E. M., Curtin C., 2009. Family-centered care for children with autism spectrum disorders: a review. Marriage & Family Review, 45(5), 469–498. [10] Epstein J., 2001. School, Family, & Community Partnerships: Preparing Educators and Improving Schools. Boulder, CO: Westview Press. 164 Hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong can thiệp sớm giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỉ [11] Jivanjee P., Kruzich J. M., Friesen B. J., et al, 2007. Family perceptions of participation in educational planning for children receiving mental health services. School Social Work Journal, 32(1), 75–92. [12] Karen Kearns, 2010. The big picture: Working in Children’s Services Series. Pearson Publisher. [13] Mary Bower Russa, Amy L. Matthews, and Jamie S. Owen-DeSchry, 2015. Expanding Supports to Improve the Lives of Families of Children With Autism Spectrum Disorder. Journal of Positive Behavior Interventions, 17(2), 95-104. [14] Wood L., Olivier T., 2011. Video production as a tool for raising educator awareness about collaborative teacher-parent partnerships. Educational Research, 53(4), 399–414. ABSTRACT Partnership between Schools and Families in Early Educational Intervention for Children with Autism Spectrum Disorders Early Educational Intervention for children with autism spectrum disorders will not be successful without the active involvement of families. Within the scope of this article, we assess the awareness of 301 administrators, teachers and parents of the partnership among families and schools in terms of contents, methods and outcomes in early educational intervention for children with autism spectrum disorders in early intervention settings. It is necessary to propose some measures to improve the partnership, advance the school’s role in its cooperation with families in ways such as: Building relationships with young families; Identifying and encouraging the strengths of their family members; Being professional in its partnership with children’s families; Providing information and guidance for intervention skills for families; Improving the exchange of information between schools and families; and Encouraging and involving families in school activities. Keywords: Early Educational Intervention, Partnership with Families, Autism Spectrum Disorders, Contents and Measures. 165
File đính kèm:
- hop_tac_giua_nha_truong_va_gia_dinh_trong_can_thiep_som_giao.pdf