Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về vần đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
Tóm tắt
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vần đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam là bộ phận tư tưởng hạt nhân, mấu chốt trong hệ thống tư tưởng của Người.
Đó là di sản vô cùng quý báu của dân tộc ta. Trong bài viết, tác giả tập trung góp
phần làm rõ một số nội dung cơ bản của sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua đó góp phần khắc họa
rõ nét chân dung, tầm vóc tư tưởng, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về vần đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về vần đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
ễn Tất Thành ra đi tìm con đƣờng cứu nƣớc mới cho dân tộc. Mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nƣớc ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đi và sống ở nhiều nƣớc thuộc châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ, chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị đàn áp của nhân dân các nuốc thuộc địa và Ngƣời cũng đã trực tiếp tìm hiểu đời sống của nhân dân lao động các nƣớc tƣ bản. Ngƣời cũng đã khảo sát và tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã hội Pháp (1919), tìm hiểu cách mạng tháng Mƣời Nga. Năm 1920, đọc Luận cƣơng của Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đƣờng cách mạng đúng đắn - con đƣờng cách mạng vô sản và Ngƣời đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngƣời khẳng định: “Muốn cứu nƣớc và giải phóng dân tộc không có con đƣờng nào khác con đƣờng cách mạng vô sản”5. Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hƣớng giáo điều, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hƣớng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đƣờng cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phƣơng hƣớng chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam là “làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”6. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, Ngƣời dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nƣớc thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trƣng bản chất của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu và bƣớc đi để đạt tới chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đƣờng khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con ngƣời, làm cho con ngƣời phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. 5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30. 6 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1. |204 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đƣờng của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đƣờng cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trƣớc quốc dân đồng bào vào ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nƣớc Việt Nam có quyền hƣởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nƣớc tự do độc lập”7. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con ngƣời. Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trƣớc hết phải có cái gì? Trƣớc hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng nhƣ ngƣời cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng nhƣ ngƣời không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”8. Đảng đó phải đƣợc xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I. Lênin, đƣợc vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đƣờng lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cƣơng lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lƣợng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. V.I. Lênin đƣa ra quan điểm Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc Việt Nam. Ngƣời nói: “Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ 7 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.3. 8 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289. 205| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nghĩa Mác - Lênin”9; “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dƣơng vào đầu năm 1930”10. Từ nhận thức đó, sau này Ngƣời khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tƣ, thiên vị”11. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Lênin không chỉ bổ sung yếu tố phong trào yêu nƣớc vào sự ra đời của Đảng Cộng sản mà còn cho thấy phong trào yêu nƣớc có khả năng kết hợp với phong trào công nhân, vì cả hai phong trào cùng một nhiệm vụ và mục tiêu trƣớc mắt là chống xâm lƣợc, giành độc lập dân tộc. Sự xuất hiện một yếu tố mới là phong trào yêu nƣớc không những không hạ thấp vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học, ngƣợc lại tỏ rõ rằng ở các nƣớc thuộc địa nhƣ Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin có một mảnh đất màu mỡ, “lực lƣợng vật chất” không chỉ là phong trào công nhân mà còn có cả phong trào yêu nƣớc. Ngƣợc lại, phong trào yêu nƣớc phải đƣợc tiếp nhận lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới thành phong trào yêu nƣớc triệt để. Sáng tạo ở vế “đồng thời là Đảng của dân tộc” ở chỗ: Cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà là toàn thể dân tộc; Đảng không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà vì lợi ích cả dân tộc; Đảng không chỉ trong tim của ngƣời đảng viên đảng cộng sản, mà phải “gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”. Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt... Trong đó, “thực hiện cho đƣợc liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”12. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”13. Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và tỷ lệ thuận giữa sức mạnh đoàn kết và khả năng thành công. Ngƣời chỉ rõ: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị 9 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.275. 10 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.406. 11 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.275. 12 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.391. 13 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.119. |206 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”14. Khái niệm “dân tộc cách mệnh” trong di sản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh chứa đựng một hàm lƣợng khoa học, sáng tạo lớn trong việc tổ chức lực lƣợng cách mạng, chính xác là xây dựng chiến lƣợc đại đoàn kết toàn dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam bị áp bức đồng tâm hiệp lực đánh đuổi thực dân Pháp, “thà chết đƣợc tự do hơn sống làm nô lệ”15. Ngƣời cũng luôn khẳng định tinh thần “bốn phƣơng vô sản đều là anh em”16. Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, nông dân là những ngƣời chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhƣng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trƣơng vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những ngƣời dân mất nƣớc, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, nhân văn, hòa bình, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang. Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”17,“ Lũ giặc cƣớp nƣớc, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác. Do đó, càng gần thắng lợi thì ta càng gặp nhiều khó khăn”18. Ngƣời khẳng định: Độc lập tự do không thể cầu xin mà có đƣợc”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân 14 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.288. 15 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.286. 16 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.670. 17 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.114. 18 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.254. 207| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam tộc, cũng nhƣ cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải “ đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”19. Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình: “Vẫn biết dụng binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nƣớc”20. Theo Ngƣời, hòa bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không đƣợc đáp ứng, phƣơng thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Ngƣời. Quan điểm trên đã thể hiện tƣ duy độc lập, tự chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vận dụng sáng tạo quan điểm cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh nghiệm cách mạng thế giới, truyền thống dân tộc vào xác định phƣơng pháp cách mạng Việt Nam. Thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh về phƣơng pháp cách mạng là đúng đắn, sáng tạo. III. KẾT LUẬN Sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã phản ánh nguyện vọng đƣợc sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, nhƣ Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sƣớng và quyền tự do”21. Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu cầu nào khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con ngƣời. Hồ Chí Minh không chỉ là ngƣời xây dựng cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là ngƣời tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách 19 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.391. 20 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.286. 21 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1. |208 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm của ngƣời đứng đầu. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định con đƣờng cứu nƣớc theo khuynh hƣớng chính trị vô sản, nhƣng Hồ Chí Minh không áp dụng rập khuôn, máy móc những nguyên lý có sẵn. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa: Vận dụng phƣơng pháp làm việc biện chứng của học thuyết Mác - Lênin, Ngƣời đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, yêu cầu khách quan của cách mạng ổ thuộc địa không phải là chống chủ nghĩa tƣ bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chống chủ nghĩa thực dân và tay sai của nó. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính cách mạng và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con đƣờng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập (15 tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Vũ Đình Hòe - Bùi Đình Phong (2010). Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 3. Đoàn Sỹ Tuấn, Trần Trọng Đạo, Tƣởng Thị Thắm (2018), Hướng dẫn nghiên cứu Giáo trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn (2011), Triết lý phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với Việt Nam ngày nay, Nxb Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 5. www.hcma.vn; www.lyluanchinhtri.vn 209|
File đính kèm:
- ho_chi_minh_van_dung_phat_trien_sang_tao_chu_nghia_mac_lenin.pdf