Giáo trình Lâm sinh tổng hợp
1.1. Khái niệm
1.1.1. Rừng là một hệ sinh thái
Thuật ngữ „hệ sinh thái‟ do nhà bác học người Anh A.P. Tanslay nêu ra vào
năm 1935 và được nhà sinh thái học nổi tiếng người Mỹ là E. P. Ôdum (1975) phát
triển thành học thuyết hoàn chỉnh về hệ sinh thái.
Bất kỳ một sinh vật nào muốn tồn tại, sinh trưởng, phát triển cũng phải gắn liền
với môi trường khí hậu và đất đai nhất định. Cây xanh hấp thụ năng lượng ánh sáng
mặt trời và các chất dinh dưỡng khoáng trong đất để tạo nên cơ thể chúng. Đó chính là
quá trình trao đổi vật chất và năng lượng giữa cơ thể sinh vật với môi trường khí hậu
và đất đai. Chính mối quan hệ qua lại giữa yếu tố sống (sinh vật) và không sống (khí
hậu, đất đai) dựa trên cơ sở trao đổi vật chất và năng lượng đó đã tạo nên một đơn vị tự
nhiên gọi là „hệ sinh thái‟.
Hệ sinh thái là đơn vị chức năng cơ bản trong sinh thái học, trong đó bao gồm
thành phần sinh vật và hoàn cảnh vô sinh, giữa các thành phần đó luôn có ảnh hưởng
qua lại đến tính chất của nhau và đều cần thiết cho nhau để giữ gìn sự sống như đã tồn
tại trên trái đất.
C. Vili (1957) đã dùng khái niệm hệ sinh thái để chỉ „một đơn vị tự nhiên bao
gồm một tập hợp các yếu tố sống và không sống, do kết quả tương tác của các yếu tố
ấy tạo nên một hệ thống ổn định, tại đây có chu trình vật chất giữa thành phần sống và
không sống‟. Như vậy hệ sinh thái là một khái niêm rộng có quy mô khác nhau: gốc
cây, ao hồ, đồng cỏ, đại dương, vi hệ sinh thái trong phòng thí nghiệm, thậm trí con tàu
vũ trụ cũng được coi là một hệ sinh thái, thành phố cũng là một hệ sinh thái.
Rừng là một hệ sinh thái mà quần xã cây rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối
quan hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường.
Hệ sinh thái có khả năng tự duy trì và tự điều hòa. Nhờ có khả năng này mà hệ
sinh thái có khả năng chống chọi đối với những biến đổi của môi trường. Đó là cơ chế
cân bằng của hệ sinh thái. Hệ sinh thái có tính ổn định càng cao thì khả năng sử dụng
tiềm năng của môi trường càng lớn. Sức chống đỡ của hệ sinh thái đối với sâu, bệnh,
lửa bão càng cao.
- Thành phần cơ bản của hệ sinh thái rừng bao gồm:
Những chất vô cơ (C, N, CO2, H2O ) tham gia vào chu trình tuần hoàn vật
chất cuả hệ sinh thái.5
Những chất hữu cơ (protein, gluxid, lipid, các chất mùn ) liên kết với các
thành phần sống và không sống của hệ sinh thái.
Chế độ khí hậu bao gồm nhiệt độ và các yếu tố vật lý khác.
Sinh vật: đây là thành phần sống của hệ sinh thái. Xét về quan hệ dinh
dưỡng, sinh vật có hai nhóm: sinh vật tự dưỡng và sinh vật dị dưỡng.
A. Sinh vật tự dƣỡng (còn gọi là sinh vật sản xuất): chủ yếu là cây xanh
chuyển hóa quang năng thành hóa năng nhờ quá trình quang hợp. Ngoài ra còn có vi
khuẩn quang hợp, vi khuẩn hóa tổng hợp cũng thuộc sinh vật tự dưỡng.
B. Sinh vật dị dƣỡng: chức năng cơ bản của chúng là sử dụng, sắp xếp lại và
phân hủy các chất hữu cơ phức tạp. Sinh vật dị dưỡng chia làm hai nhóm nhỏ:
+ Sinh vật tiêu thụ: sinh vật tiêu thụ là sinh vật ăn các sinh vật khác. Sinh vật
tiêu thụ chia làm 3 loại:
Sinh vật tiêu thụ bậc 1: sinh vật ăn trực tiếp sinh vật sản xuất, trước hết là động
vật ăn thực vật. Ngoài ra các động vật và cả thực vật ký sinh trên cây xanh cũng thuộc
loại này. Chúng ký sinh trên cây chủ nhưng không có khả năng tiêu diệt cây chủ.
Sinh vật tiêu thụ bậc 2: sinh vật ăn trực tiếp sinh vật bậc 1. Đó là các động vật
ăn thịt, các động vật ăn thực vật.
Sinh vật tiêu thụ bậc 3: sinh vật ăn trực tiếp sinh vật tiêu thụ bậc 2. Đó là các
động vật ăn thịt, các động vật ăn thịt khác.
+ Sinh vật phân hủy: nhóm sinh vật này phân hủy các hợp chất phức tạp của
chất nguyên sinh, hấp thụ một phần sản phẩm phân hủy và giải phóng các chất vô cơ
trả lại cho đất.
Quá trình tổng hợp và phân hủy chất hữu cơ trong hệ sinh thái
Trong hệ sinh thái luôn diễn ra quá trình tổng hợp và phân hủy các chất hữu cơ.
Hai quá trình đó diễn ra đồng thời, quá trình tổng hợp tạo ra tiền đề vật chất và năng
lượng cho qúa trình phân hủy, và ngược lại quá trình phân hủy lại tạo tiền đề cho quá
trình tổng hợp. Tổng quan giữa 2quá trình này quyết định năng suất của hệ sinh thái.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lâm sinh tổng hợp
dương lịch, bón cách gốc 10-15cm. Chú ý: Quá trình chăm sóc không được vun đất vào búi Luồng, vì vun đất sẽ tạo điều kiện cho búi bị nâng gốc, gió bão sẽ làm đổ cả búi. Chặt vệ sinh: Rừng Luồng sau khi trồng 4-5 năm phải chặt vệ sinh. Mục tiêu chặt vệ sinh là để loại bỏ cây quá già, cây sâu bệnh. Chủ yếu là cây 4-5 tuổi, cây năm thứ nhất, thứ hai sau khi trồng. Sau khi chặt vệ sinh xong phải dọn cành nhánh, xếp gọn thành từng đống để tránh lửa rừng, cuốc xung quanh búi Luồng theo hình vành khuyên cách 1 m, sâu 20-25 cm, tủ rác vào gốc giữ ẩm. Mục đích của việc cuốc xung quanh búi là để cắt đứt bớt lượng rễ già, đất được xốp ẩm, giết được sâu vòi voi ẩn nấp dưới đất. * Phòng trừ sâu bệnh 163 Bệnh hại Luồng nguy hiểm nhất là bệnh chổi xể tre (Balansia teke). Nếu búi Luồng nào bị bệnh chổi xể thì chặt bỏ cả bụi đem cây ra đốt hoặc dùng boócđô với nồng độ 1% phun vào gốc để trừ bệnh. Sâu hại Luồng có rất nhiều loại, có loại ăn lá, có loại ăn hại măng, nhưng hại nhất là sâu vòi voi hại măng (Crytrachelus longimanus Fab). Biện pháp phòng trừ loại sâu này: Giai đoạn sâu non (sâu trong thân măng) dùng thuốc Bi58 nồng độ 1/120 với liều lượng 10cc/măng, tiêm vào cây măng, vị trí tiêm cách đỉnh sinh trưởng của măng 40- 50cm. Giai đoạn nhộng: Tổ nhộng ở dưới đất thì dùng cuốc để đào xung quanh búi, mục đích để làm đảo lộn sinh thái của sâu, tạo điều kiện cho thiên địch giết hoặc làm sát thương sâu. Giai đoạn sâu trưởng thành (sâu bay giao phối đẻ trứng) thì lợi dụng tính giả chết của sâu, dùng nhân lực bắt giết. * Khai thác Luồng: Luồng sau khi trồng 5 năm thì cho thu hoạch, thời gian cho thu hoạch có thể kéo dài 40-50năm liền, chu kỳ khai thác ngắn (1-2năm/lần). Lượng khai thác hàng năm từ 1200-1400 cây/ha theo phương thức khai thác chọn. Nên lựa chọn cường độ khai thác như thế nào để vừa thu được sản phẩm lại vừa tạo điều kiện cho luồng phát triển. Cường độ chặt: Cường độ chặt mạnh: Chừa lại cây 1 tuổi Cường độ chặt vừa: Chừa lại cây 1, 2 tuổi Cường độ chặt yếu: Chừa lại cây 1, 2, 3 tuổi Qua kinh nghiệm cho thấy cường độ chặt vừa thích hợp và luân kỳ khai thác là 2-3 năm. Mùa khai thác nên thi công vào mùa cây ngừng sinh trưởng là tốt nhất. Kỹ thuật chặt hạ: Khi chặt hạ phải chừa lại gióng sát mặt đất. Dùng dao sắc để chặt, khi chặt xong vết chặt phải phẳng phiu. Làm như vậy chồi măng của gióng còn lại sẽ phát triển thành giống chét, một loại giống tốt cho trồng rừng. Sau khi khai thác đều phải thu dọn cành nhánh xếp thành đống. Cần xới xáo xung quanh gốc cách bụi rộng 1m, sâu 20-25cm. Tủ giác vào gốc giữ ẩm. 5.3.2. Cây Tre Bát Độ Giới thiệu: Bát Độ là tên một người ở Trung Quốc đã mang giống tre này từ nước ngoài về trồng lấy măng để tiến Vua cách đây 400 năm. Từ đó gọi là tre Bát Độ và được duy trì ở Trung Quốc đến ngày nay. 5.3.2.1. Giá trị sử dụng Tre Bát Độ là loại cây được trồng với mục đích chính là lấy măng, măng là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Măng to (3 - 8 kg), vỏ mỏng, thịt trắng - dày - lõi 164 nhỏ, tỷ lệ thịt đạt trên 85%, ăn rất ngon và giòn. Măng có tác dụng tăng cường tiêu hoá, phá đờm, nhuận phổi, giảm béo phì. Ăn thường xuyên có tác dụng phòng trừ huyết áp cao rất tốt. Măng Bát Độ ngoài để ăn tươi, còn có thể chế biến đồ hộp, đóng túi, làm măng chua, sấy khô dạng lát, sợi... được các thị trường Hồng Công, Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, rất ưa chuộng và ngay ở Trung Quốc vẫn là loại hàng hiếm, có nhu cầu tiêu thụ lớn. 5.3.2.2. Đặc điểm sinh thái Tre Bát Độ là cây nhiệt đới, sinh trưởng trong điều kiện nhiệt độ trung bình hàng năm 18 - 260C, tháng 1 lạnh nhất 6 - 80c, tháng nóng nhất 34 - 360c, lượng mưa 1400mm trở lên, số giờ nắng 1300 - 1600 giờ/năm. Những nơi nhiệt độ cao hơn vẫn trồng được và lượng mưa, số giờ nắng cao hơn thì càng tốt. Tre Bát Độ không đòi hỏi cao về đất trồng, đất đồng bằng, đồi dốc, núi thấp đều có thể trồng được. Ưu điểm nhất là chịu hạn, trồng được ở đồi dốc cho tới độ cao 500m so với mặt biển. Những nơi có tầng đất dày, xốp, giàu mùn, ẩm và đất thấp dưới 500m thì càng tốt hơn. 5.3.2.3. Năng suất và thời gian thu hoạch Năng suất: măng Bát Độ có tiếng về năng suất cao, thân măng to. Năm thứ 3 sau khi trồng một cái măng nặng 3 - 8 kg (thân măng cao 50 - 100cm, đường kính gốc măng từ 10 - 30 cm). Một khóm tre Bát Độ thường có 15 - 20 cái măng, trung bình thu được 80 - 150kg/năm trở lên. Năng suất cao nhất của măng Bát Độ một năm thu được 135tấn/ha, năng suất trung bình 90tấn/ha, đường kính gốc măng trung bình là 16cm. Thời gian: Sau khi trồng thì năm đó và năm thứ hai là thời kì chăm sóc, năm thứ ba trở đi mới thu hoạch. Thu hoạch trong khoảng 15 - 20 năm. Măng Bát Độ có thời gian thu hoạch dài, nhiều tháng trong năm : từ tháng 3 đến tháng 11,12. Vào tháng 3 khi nhiệt độ từ 150C trở lên là măng mọc lên. 5.3.2.4. Kỹ thuật trồng và thu hái măng Cây giống Vườn chuyên trồng để nhân giống tre Bát Độ được trồng riêng với kỹ thuật khác trồng lấy măng. Cây giống đem trồng có đường kính thân 3 - 6 cm, ở gốc đã có rễ phát triển mạnh. Thời vụ trồng Từ tháng 1 đến tháng 3, khi cây tre đang trong thời kì ngủ nghỉ, tốt nhất là trồng tháng 1 (trước tết âm lịch). Khoảng cách trồng Cây cách cây 4m, hàng cách hàng 5 m, mật độ trồng 500 cây/ha. 165 Hố trồng Đào theo kích thước 70cm x 70cm x 30cm (sâu30cm), những nơi đất xấu có thể đào hố lớn hơn. Bón phân lót Tốt nhất là phân chuồng, 15 - 25kg/hố, đảo đều với đất, cho vào hố trước khi trồng. Cách trồng Dùng cuốc hoặc xẻng trộn đều đất trong hố, để cho đất tơi xốp và thoáng khí nhưng không được có các khoảng trống trong đất. Sau đó cuốc một lỗ to hơn bầu cây ở giữa hố trồng và đặt cây giống xuống (bầu cây nằm chọn trong hố), dùng tay lèn chặt để rễ cây tiếp xúc với đất mới. Tiếp theo, dùng cuốc vun đất quanh gốc và phủ cỏ, rác để giữ ẩm. Cần tưới đủ ẩm cho cây ngay sau khi trồng và 3 tháng đầu. Thu hái măng Vỏ măng khi chưa ra khỏi mặt đất thì có màu vàng nâu, thịt măng non và chất lượng tốt. Khi măng đã mọc lên khỏi mặt đất thì vỏ măng sẽ biến thành màu xanh lục, thịt măng sẽ bị lão hoá, chất lượng giảm. Vì vậy, phải lấp đất che phủ măng không để ánh sáng mặt trời chiếu vào. Để nâng cao chất lượng măng, trong thời gian thu hái măng phải dùng đất và mùn hữu cơ phủ gốc cho khóm măng thành một lớp đất dày 16 - 30cm hoặc hơn nữa. Khi măng bắt đầu nhú lên khỏi mặt lớp đất phủ thì thu hoạch. Thời kỳ đầu (tháng 3 - 4) và thời kì cuối (tháng 11 - 12), nhiệt độ thấp măng mọc chậm thì 5 - 7 ngày thu một lần. Các tháng hè thu (tháng 5 - 10) nhiệt độ cao, mưa nhiều măng mọc rộ từ 3 - 5 ngày thu một lần. Tốt nhất là thu măng vào buổi sáng. Dùng một cái cuốc tay bới đất xung quanh cái măng, rồi dùng dao cắt măng lấy ra khỏi gốc cây. Chú ý không làm hư hại gốc cây, bởi vì ở đó có những mắt sinh ra măng mới. Lấy măng xong lại phủ đất lên gốc khóm măng như cũ. Cách để cây con thay thế cây mẹ Tre Bát Độ từ năm thứ 4 đến năm thứ 6 sinh trưởng rất nhanh. Thông thường, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 chỉ lấy măng, không để cây con mới thay thế cây mẹ cũ. Đến năm thứ 6 thì để 3 - 4 cây con mới mọc lên thay cho các cây tre mẹ, đào bỏ các cây mẹ cũ vào mùa đông. Các năm thứ 7 - 9 chỉ lấy măng. Đến năm thứ 10 lại để 3 - 4 cây mới thay thế các cây mẹ và phải đào bỏ hết gốc của cây mẹ để từ năm thứ 6 sau này, một khóm tre Bát Độ để từ 6 - 8 cây mẹ và cứ cách 4 năm lại đào bỏ đi 3 - 4 cây, để 3 - 4 cây mới. Đồng thời phải đào bỏ những gốc già một lần nữa, sau đó năm nào cũng có măng thu hoạch. 166 Chăm sóc và bón thúc phân: Cần phải trừ cỏ và xới đất xung quanh gốc cây cho xốp. Nhất là măng mới trồng cần làm sạch cỏ. Thông thường hàng năm làm cỏ xới đất 2 lần vào tháng 5-6 và tháng 8-9. Bón phân: Các loại phân bón đều dùng được. Phân chuồng, bột xương, đất bùn ao tốt nhất là bón vào mùa thu - đông, từ 22,5 - 37,5tấn/ha hoặc bùn ao từ 37,5 - 60tấn/ha. Các loại phân có hiệu quả nhanh như phân tổng hợp, đạm, lân,... nên bón vào mùa xuân - hè, sau khi làm cỏ xới đất, mỗi khóm bón 0,1 - 0,25kg. Bảo vệ và phòng trừ sâu bệnh Không được thả trâu bò vào vườn tre lấy măng, nhất là khi mới trồng. Sâu bệnh chủ yếu là bệnh thối măng và sâu voi: Phòng bệnh thối măng: Dùng thuốc “đặc hiệu” của Trung Quốc pha loãng 5000 lần phun phòng, cứ 7 ngày phun một lần là tốt nhất. Phòng trừ sâu voi: Buổi sáng (9 - 12 giờ) và chiều (3 giờ đến tối) là lúc nó hoạt động và đẻ trứng thì bắt và diệt. Khi ấu trùng chuyển hoá thành sâu thì dùng thuốc Địch Bách trùng 90% (Dipterex) pha loãng 500 lần, hoặc dùng thuốc địch uý 50% pha loãng 1000 lần để phun trừ sâu. 5.3.3. Trúc sào (Tên khoa học: Phyllostachys pubescens Mazel ex H. de Lehaie) 5.3.3.1. Giá trị kinh tế Trúc sào thường được nhân dân dùng làm nhà. Trong các căn nhà của đồng bào Dao Cao Bằng rất nhiều bộ phận làm bằng trúc như: mái nhà, tường liếp, cột kèo, cửa Trúc sào cũng dùng làm các đồ gia dụng như: bàn ghế, giường, chõng, rổ rá Các xưởng chế biến trúc sào làm sào nhẩy, gậy trượt tuyết xuất khẩu Xưởng giấy Cao Bằng dùng thân trúc sào làm nguyên liệu bột giấy. Một cây trúc sào cao 10m, đường kính 5cm cân nặng khoảng 3,2kg. 5.3.3.2. Đặc điểm hình thái Trúc sào có nhiều đặc điểm hình thái gống trúc cần câu, nhưng trúc sào có thân tre to lớn hơn: Cây cao 10 - 20m, đường kính 4 - 12cm hoặc hơn, mặt lóng có lông cứng. Mo thân có bẹ mo lớn (15x20cm), mặt lưng có lông cứng, mép có lông thô, tai mo thoái hoá, lông tai mo dài. 5.3.3.3. Đặc điểm sinh thái, lâm sinh Ở Việt Nam Trúc sào được trồng ở độ cao 500 - 1500m nơi có độ dốc 5 - 300, trên loại địa hình sườn và đỉnh núi đất và núi đá vôi. Trúc sào phát triển tốt ở nơi nhiều ánh sáng, tầng đất sâu, giầu mùn và ẩm (đường kính thân trúc tới 12 - 15cm). Trúc phát triển kém ở nơi đất khô, tầng mỏng, nghèo mùn (cây chỉ cao 6 - 7m, đường kính 5-6cm). Trúc sào thường được trồng thuần loại, mùa măng tháng 2-3. Tuổi thành thục 1- 2 năm, tuổi khai thác 2-3 năm. Trúc sào có hiện tượng khuy khá nặng. Năm 1973 riêng 167 huyện Nguyên Bình và Bảo Lạc có tới 40-60% diện tích rừng trúc sào bị khuy. Sau khi khuy cây bị chết, chưa thấy tái sinh bằng hạt. Rừng trúc sào ít bị sâu bệnh. Mới bắt gặp kiến đục măng và châu chấu ăn lá, nhưng tác hại không đáng kể. * Phân bố: Trên thế giới trúc sào phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản, ở Việt Nam loài trúc này không gặp trong trạng thái tự nhiên, chúng được trồng ở Cao Bằng (Chợ Rã, Bảo Lạc), Hà Giang (Đồng Văn), Bắc Kạn (Chợ Đồn, Bạch Thông) Có lẽ giống Trúc sào đã được người Dao mang từ Trung Quốc vào Việt Nam từ rất lâu đời, trong các đợt di cư xuống phía Nam của họ. Hiện nay khi di chuyển đến các địa điểm mới đồng bào Dao thường mang giống trúc sào theo để trồng ở nơi mới định cư. 5.3.3.4. Kỹ thuật trồng Kỹ thuật trồng trúc sào cũng giống như trồng trúc cần câu. Nhưng mùa trồng trúc sào sớm hơn. Trúc sào được trồng vào tháng 10-12, trước mùa măng. Nơi trồng trúc sào có độ cao lớn hơn vì loài này chịu lạnh hơn trúc cần câu. Sau khi trồng 1 năm, trúc sào đã có kích thước bằng trúc cần câu. Sau 5 năm đạt đường kính lớn nhất. Sau khi trồng 4-5 năm có thể khai thác được. Ở Việt Nam nên phát triển trồng trúc sào ở các tỉnh giáp biên giới Việt - Trung. Giống lấy từ vùng trúc sào mọc tập trung ở 2 huyện Bảo Lạc và Nguyên Bình của Cao Bằng. Chăm sóc bảo vệ: Sau khi trồng nếu đất quá khô phải tưới nước cho đủ ẩm, hoặc che phủ thích hợp để chống nắng gắt, đất thoát nước mạnh. Ở miền núi cần đặc biệt chống gia súc phá hoại vì măng và lá trúc được các loại gia súc và thú rừng lớn rất ưa thích. Cần làm hàng rào, đào rãnh quanh nơi trồng trúc. Khi măng nhú được 2 tháng thì làm cỏ, xới gốc. Chăm sóc liên tục trong 3 năm. Số lần chăm sóc năm đầu nhiều hơn các năm sau. Sau khi trồng 4 - 5 năm thì có thể khai thác được. Sau đó, hai năm khai thác một lần. 168 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ lâm nghiệp, 1987. Quy trình kỹ thuật trồng rừng thâm canh các loài cây Thông, Bạch đàn, Bồ đề, Keo lá to, để cung cấp nguyên liệu giấy, Hà Nội. 2. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2001. Văn bản tiêu chuẩn kỹ thuật lâm sinh tập 1, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2001. Văn bản tiêu chuẩn kỹ thuật lâm sinh tập 2, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002. Văn bản tiêu chuẩn kỹ thuật lâm sinh tập 3, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2004. Cẩm nang ngành lâm nghiệp chương trồng rừng, Nxb GTVT, Hà Nội. 6. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2004. Cẩm nang ngành lâm nghiệp chương đất và dinh dưỡng đất, Nxb GTVT, Hà Nội. 7. Công ty giống và phục vụ trồng rừng, 1995. Sổ tay kỹ thuật hạt giống và gieo ươm một số loài cây trồng rừng, Nxb nông nghiệp, Hà Nội. 8. Cục lâm nghiệp, 2007. Tuyển tập tâì liệu về quản lý và kỹ thuật giống cây trồng lâm nghiệp Việt Nam. Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 9. Đại học lâm nghiệp, 1992. Giáo trình lâm sinh học tập 2, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 10. Ngô Quang Đê, 1985. Cơ sở chọn giống và nhân giống cây rừng. Nxb nông nghiệp, Hà Nội. 11. Ngô Quang Đê, Nguyễn Mộng Mênh, 1981. Kỹ thuật giống cây rừng, Nxb Nông nghiệp, xuất bản lần thứ nhất 1981, lần thứ 2 1986. 12. Lâm Công Định, 1977. Trồng rừng gỗ cho công nghiệp, Nxb nông nghiệp, Hà Nội. 13. Phạm Hoài Đức, 1992. Hướng dẫn kỹ thuật hạt giống cây rừng, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, tài liệu dịch. 14. Lê Đình Khả và các cộng sự, 2003. Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, Chọn tạo giống và nhân giống cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu ở Việt Nam. Nxb nông nghiệp, Hà Nội. 15. Vũ Biệt Linh và cộng sự, 1996. Nghiên cứu một số cơ sở KHCN cho thâm canh rừng gỗ lớn trên diện tích rừng lá rộng thường xanh. Chương trình KHCN quốc gia, Nhà XBNN Hà nội. 169 16. Nguyễn Xuân Quát, Cao Thọ ứng, 1968. Cây Keo lá tràm, Nxb nông nghiệp, Hà Nội. 17. Nguyễn Huy Sơn, Phan Văn Thắng, Lê Văn Thành, 2013. K ỹ thuật trồng một số loài Tre trúc song mây. Nxb Nông nghiệp Hà Nội . 18. Tạp chí lâm nghiệp,1986. Chọn cơ cấu loại cây trồng rừng thâm canh trên quan điểm sản lượng. Tạp chí lâm nghiệp số 9. 19. Nguyễn Văn Trương, 1996. Thâm canh rừng tự nhiên, Nhà XbCN Hà Nội. 20. Viện tư vấn phát triển KTXH nông thôn và miền núi, viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, 2002. Kỹ thuật trồng cây nguyên liệu giấy. Nxb lao động - xã hội, Hà Nội. 21. Nguyễn Hữu Vĩnh, Ngô Quang Đê, Phạm Xuân Hoàn, 1986. Giáo trình trồng rừng. Nxb nông nghiệp, Hà Nội. 22. Vụ khoa học công nghệ - Bộ lâm nghiệp, 1994. Kỹ thuật trồng một số loài cây rừng. Nxb nông nghiệp, Hà Nội. 23. Nguyễn Xuân Xuyên và các cộng tác viên, 1985. Thâm canh rừng trồng Thông. 170 MỤC LỤC 171
File đính kèm:
- giao_trinh_lam_sinh_tong_hop.pdf