Giáo dục phòng, chống bắt nạt học đường cho học sinh các trường Trung học Cơ sở
Hiện nay, hiện tượng bạo lực học đường (BLHĐ) ở
nước ta ngày càng gia tăng về số vụ và có nhiều diễn biến
phức tạp, trong đó, bắt nạt học đường (BNHĐ) là một
trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển
tâm lí, thể chất của học sinh (HS) kể cả HS bắt nạt và bị
bắt nạt, ảnh hưởng không nhỏ đến gia đình, nhà trường
và xã hội, đặc biệt là hoạt động giáo dục (GD) trong các
trường phổ thông. Thực tế này đặt ra các cho nhà trường,
cộng đồng một trách nhiệm lớn là phải quan tâm đến việc
GD giữ gìn kỉ cương trong trường học, kịp thời uốn nắn
những hành vi sai trái của HS, hình thành ở HS thái độ
yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ nhau. Vì vậy, việc nghiên
cứu nhằm tìm ra các biện pháp phòng, chống BNHĐ cho
HS là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm.
Bài viết đề cập một số vấn đề lí luận về BNHĐ, GD
phòng chống tình trạng BNHĐ, trên cơ sở đó đề xuất các biện
pháp GD phòng, chống BNHĐ cho HS các trường trung học
cơ sở dựa trên sự phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng
nhằm góp phần giảm tỉ lệ trẻ em bị bắt nạt tại các trường học.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo dục phòng, chống bắt nạt học đường cho học sinh các trường Trung học Cơ sở
Phương pháp đàm thoại: trao đổi ý kiến, thảo luận về quan điểm cá nhân giữa GV, những người tham gia GD với HS hoặc giữa HS với nhau. Tập trung đàm thoại về một chủ đề nào đó thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và đời sống hằng ngày liên quan đến hiện tượng BNHĐ; + Phương pháp giảng giải: nhà GD thông báo, phân tích, giải thích, chứng minh tính đúng đắn của các chuẩn mực liên quan đến nội dung GD BNHĐ đã được các cơ quan có thẩm quyền quy định hay xã hội công nhận; + Phương pháp nêu gương: GV nhà trường sử dụng những tấm gương sáng, những hành vi mẫu mực có thật trong xã hội của cá nhân HS hoặc tập thể được mọi người tôn vinh, công nhận để kích thích HS làm theo với sự cảm phục, ngưỡng mộ. - Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động nhằm hình thành cho HS những kinh nghiệm trong ứng xử xã hội; hình thành những hành vi phù hợp với chuẩn mực của đời sống xã hội, những phẩm chất nhân cách và hành vi thói quen tích cực, gồm các phương pháp sau: + Phương pháp nêu yêu cầu: GV đưa ra những yêu cầu, những đòi hỏi đối với tập thể, cá nhân HS, đồng thời tổ chức, giám sát việc thực hiện các yêu cầu đó của các em nhằm đạt được mục tiêu GD đã đề ra; + Phương pháp rèn thói quen: nhà trường tổ chức cho HS thực hiện những hành vi, cử chỉ khác nhau một cách thường xuyên, với mục đích làm cho hành động đó trở thành nhu cầu và thói quen tích cực của HS, giúp HS có điều kiện rèn luyện cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực của xã hội cũng như khả năng tổ chức hoạt động cho cá nhân mình. - Nhóm các phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi có tác dụng GD rất lớn đối với HS nhằm động viên HS phát huy hết khả năng, sức lực, tinh thần và thể chất, tình cảm và trí tuệ, thái độ và trách nhiệm để đạt hiệu quả cao nhất trong học tập và rèn luyện, bao gồm: + Phương pháp khen thưởng, động viên thi đua: GV thể hiện sự đồng tình, hài lòng của mình đối với hành vi, thái độ của HS qua việc phân tích, đánh giá đúng mặt tích cực của những hành động tốt trong các ứng xử của HS theo chuẩn mực xã hội; + Phương pháp trách phạt: GV thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà GD đối với những hành vi sai lệch, thái độ không đúng của HS, tạo cơ hội và điều kiện để HS nhận ra được những lỗi lầm, thiếu sót của mình đối với các hành vi sai trái, có thái độ hối hận và tinh thần quyết tâm sửa chữa, không tái phạm. 2.4.4. Hình thức giáo dục - GD thông qua các giờ học trên lớp. Trong các giờ học tại lớp, trong những tiết học GD công dân hay những môn học khác có nội dung liên quan đến GD nhân cách, GV lồng ghép những nội dung thích hợp để truyền tải tới HS những thông tin liên quan đến BNHĐ. Mặt khác, qua các giờ học trên lớp, HS còn được trang bị những hiểu biết về giá trị văn hóa đạo đức, thuần phong mĩ tục, lòng nhân ái, bao dung, tình đoàn kết, ý chí phấn đấu trong học tập, cho cuộc sống hạnh phúc tương lai của các em. Thực hiện GD kĩ năng sống, GD đạo đức để HS được trau dồi đầy đủ kiến thức và thành thạo các kĩ năng sống cho bản thân, đảm bảo sức khỏe, có khả năng “đề kháng” với tất cả các mâu thuẫn, các xung đột, góp phần phòng chống nạn BNHĐ. - GD thông qua giờ sinh hoạt lớp, giờ chào cờ vào các ngày thứ hai hàng tuần. GD phòng chống BNHĐ trong sinh hoạt lớp thường đạt hiệu quả cao do không khí sôi nổi trong lớp, các em dễ dàng biểu đạt những suy nghĩ, nhìn nhận của mình. Do vậy, GV chủ nhiệm cần có cách thức phổ biến phù hợp để HS dễ tiếp thu và lựa chọn hành vi đúng đắn khi đối diện trực tiếp với các vụ BNHĐ trong trường, lớp mình. Trong giờ chào cờ, nhà trường cần kết hợp tuyên truyền những nội dung liên quan đến phòng chống BNHĐ để tạo được sự cảm nhận sâu sắc vấn đề, từ đó có ý thức, thái độ, hành động đúng đắn, phù hợp trước nạn bắt nạt đang xảy ra trong trường, lớp và ngoài xã hội. Thực tiễn cho thấy, GD phòng chống BNHĐ thông qua sinh hoạt lớp và giờ chào cờ là hình thức đơn giản, dễ thực hiện nhưng đem lại hiệu quả cao với HS. - GD thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa phù hợp với hoàn cảnh thực tế địa phương và điều kiện cụ thể nhà trường. Có thể lựa chọn một số cách thức sau: + Tổ chức các hoạt động gặp gỡ như giao lưu, học tập kinh nghiệm xây dựng lớp học thân thiện, đoàn kết giữa các lớp, giữa các trường trong cùng địa phương; + Tổ chức hội thảo, thảo luận, nói chuyện chuyên đề tìm hiểu nâng cao về phòng chống BLHĐ; hoặc cho các em gặp gỡ các chuyên gia tâm lí, các nhà GD học; thi tìm hiểu kiến thức về BNHĐ, phòng chống BNHĐ nhằm thu hút đông đảo HS tham gia; + Tổ chức các hoạt động truyền thông trong nhà trường như: tuyên truyền, vận động, cổ động bằng việc treo băng rôn, khẩu hiệu, sáng tác thơ ca, nhạc, kịch, thi viết báo tường, báo mạng, viết thư tay với nội dung về phòng chống BNHĐ để truyền tải các nội dung cần thiết đến với HS; Tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ, trình chiếu video với các hình ảnh, tranh vẽ, video clip về BLHĐ và BNHĐ để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống BLHĐ trong trường học và cộng đồng dân cư; + Đưa vào nội dung chuyên đề trong các cuộc thi tài năng của nhà trường như: Rung chuông vàng, thi diễn kịch, thi kĩ năng giải quyết tình huống BNHĐ, hội diễn văn nghệ về chủ đề phòng chống BNHĐ để các em có cơ hội trải nghiệm và bộc lộ khả năng ứng phó của mình; + Tổ chức các câu lạc bộ rèn luyện kĩ năng ứng xử, câu lạc bộ võ thuật, các phòng thể chất đa năng thu hút HS tham gia để các em thường VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 115-120 119 xuyên tập dượt, thực hành kĩ năng phòng chống BNHĐ; rèn luyện thể chất và kĩ năng cần thiết tự bảo vệ bản thân, bảo vệ người khác khi gặp tình huống BNHĐ. - GD thông qua trung tâm học tập cộng đồng của địa phương. Với môi trường mở, đa dạng về đối tượng người học, trung tâm học tập cộng đồng của địa phương rất phù hợp với việc GD phòng chống BNHĐ cho HS, thanh niên. Để thực hiện được, nhà trường có thể phối hợp với các trung tâm học tập cộng đồng ở địa phương để xây chương trình, nội dung về BNHĐ và tổ chức GD cho HS vào những thời gian thích hợp. Tổ chức các hoạt động truyền thông tại các trung tâm học tập cộng về GD phòng chống BNHĐ cho cha mẹ và các em HS nắm được các thông tin cần thiết về vấn đề để các bậc cha mẹ đồng hành cùng nhà trường và cộng đồng trong công tác GD phòng chống tệ nạn BNHĐ cho con em mình. Mặt khác, các thành viên tham gia học tập với nhiều độ tuổi, đa dạng về thành phần, trình độ tại đây là cơ hội để thực hiện sự phối, kết hợp phòng chống BLHĐ với nhà trường có kết quả cao nhất. - GD thông qua hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Ở địa phương, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức trực tiếp tham gia GD thanh, thiếu niên tại nơi sinh sống. Vì vậy, nhà trường cần phối hợp lãnh đạo chính quyền địa phương, Đoàn Thanh niên và các tổ chức quần chúng thực hiện GD phòng, chống BNHĐ cho HS. Đoàn có thể tổ chức các hoạt động học tập truyền thống vẻ vang của đất nước, truyền thông văn hóa của dân tộc ở địa phương với các hình thức phong phú, phù hợp để hình thành cho HS thái độ đúng đắn, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, từ đó có những hành động đúng đắn, cách xử lí đúng mức, kịp thời khi đối diện với hành vi BLHĐ. 2.4.5. Các lực lượng tham gia giáo dục Để thực hiện tốt việc GD BNHĐ ở các trường phổ thông cần có sự tham gia phối hợp của toàn hệ thống chính trị địa phương với nhà trường, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo. - Nhà trường. Để công tác phòng, chống BNHĐ trong nhà trường đạt hiệu quả cao, vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo nhà trường, các đoàn thể, đội ngũ cán bộ, nhân viên và GV phải được đặt lên hàng đầu. Muốn vậy, cần: + Phân công trách nhiệm cụ thể, phù hợp với phù hợp chức năng, nhiệm vụ cho từng tổ chức, từng thành viên trong nhà trường về chương trình, kế hoạch thực hiện phòng, chống BNHĐ của nhà trường; xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức trong nhà trường; + Đôn đốc, kiểm tra, theo dõi thường xuyên hoạt động GD phòng, chống BNHĐ của các tổ chức, cá nhân được phân công; + Tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm công tác, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường. - Gia đình có vai trò rất quan trọng trong GD HS về thái độ, đạo đức, tình cảm và góp phần quan trọng trong hình thành nhân cách tuổi học trò. Tính gương mẫu của ông bà cha, mẹ, truyền thống, nền nếp của gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành nhân cách HS ngay từ khi còn nhỏ. Vì vậy, có thể khẳng định, GD phòng, chống BNHĐ là nhiệm vụ chính của cha, mẹ trong gia đình các em. Anh, chị của HS là luôn đồng hành cùng các em trong học tập, nhất là trong quá trình GD phòng, chống BNHĐ. Vì vậy, vai trò gương mẫu của anh, chị đối với các em là rất lớn. - Cộng đồng. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các lực lượng cộng đồng (chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở địa phương như Đoàn Thanh niên, Hội Khuyến học, Hội Phụ nữ) nhằm ngăn chặn và đẩy lùi nạn BNHĐ là rất quan trọng. GD của nhà trường nói chung không thể tác rời khỏi xã hội và hoạt động GD phòng, chống BNHĐ cũng gắn bó chặt chẽ với xã hội. Mỗi một tổ chức, cá nhân có vai trò khác nhau nên mức độ ảnh hưởng cũng khác nhau trong hoạt động GD phòng, chống BNHĐ. Sự tham gia tích cực, phối hợp chặt chẽ, khoa học với phương thức phù hợp của các lực lượng cộng đồng ở địa phương sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền, GD phòng chống BNHĐ cho HS và cha mẹ các em. - Trung tâm học tập cộng đồng địa phương, với chức năng nhiệm vụ của mình cần GD cho con em nhân dân địa phương trong việc phòng chống tệ nạn xã hội nói chung, nạn BNHĐ nói riêng lồng ghép với các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, đọc sách báo; phối hợp với nhà trường xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về GV, cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu để phối hợp với nhà trường GD phòng, chống BNHĐ một cách hiệu quả. 3. Kết luận GD phòng, chống BNHĐ nhằm GD cho HS những kiến thức về đạo đức, thái độ, hành vi bắt nạt trong các trường học, từ đó các em có ý thức, kĩ năng hành động để phòng, chống tệ nạn BNHĐ. GD phòng chống BNHĐ cho HS là trách nhiệm chung của toàn xã hội, song nhà trường là lực lượng trực tiếp, chủ đạo trong mọi hoạt động GD. Vì vậy, nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức ở địa phương như: chính quyền các cấp, trung tâm học tập cộng đồng, các lực lượng vũ trang, các cơ VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 115-120 120 quan chức năng quản lí nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh...), cơ quan công an, văn hóa, cơ quan truyền thông tuyên truyền... Để phối hợp có hiệu quả, các bên cần cung cấp kịp thời cho nhà trường những thông tin liên quan đến tình hình tư tưởng, thái độ của HS ở địa phương, nhất là những biểu hiện bạo lực của HS, tạo điều kiện nhà trường tiếp tục theo dõi, GD ở trường học. Tài liệu tham khảo [1] Hoàng Phê (2010). Từ điển tiếng Việt. NXB Từ điển Bách khoa. [2] Olweus, D. (1994). Bullying at school: Basic facts and effects of a school-based intervention program. Journal of Child Psychology and Psychiatry, Vol. 35, pp. 1171-1190. doi:10.1111/j.1469- 7610.1994.tb01229.x [3] Lê Thị Ngọc Lan (2018). Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên. Tạp chí Giáo dục, số 423, tr 11-15. [4] Bùi Thị Hồng (2016). Bạo lực học đường ở Việt Nam hiện nay: Thông tin qua các trang báo điện tử. Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 5, tr 34-36. [5] Bộ GD-ĐT (2012). Kết quả kiểm tra Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tại 12 tỉnh/thành phố thuộc 7 vùng thi đua. [6] Bộ GD-ĐT (2008). Chỉ thị số 71/2008/CT-BGDĐT, ngày 23/12/2008 về tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục trẻ em, sinh viên. [7] Bộ GD-ĐT (2019). Chỉ thị số 993/CT-BGDĐT ngày 12/4/2019 về việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực học đường trong cơ sở giáo dục [8] Nguyễn Thị Thanh Bình (2013). Một số biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa hành vi gây hấn học đường. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 92, tr 12-15; 64. [9] Lê Vân Anh - Lưu Thu Thuỷ - Trịnh Thị Anh Hoa (2012). Giáo dục kĩ năng phòng chống bạo lực học đường. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [10] Nguyễn Hải Đăng (2007). Cẩm nang giáo dục lối sống và phòng chống bạo lực trong nhà trường. NXB Lao động [11] Minh Khang (2012). Rùng mình với bạo lực học đường. Báo Pháp luật, số ra ngày 17/9/2012. [12] Trần Thị Minh Đức (2010). Hành vi gây hấn phân tích từ góc độ tâm lí học xã hội. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÍ (Tiếp theo trang 105) 3. Kết luận NCKH của HV ở Học viện ANND có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đào tạo. Thông qua hoạt động NCKH, HV tự tìm tòi, khám phá những tri thức khoa học mới; rèn luyện khả năng tư duy, kĩ năng làm việc nhóm và nhiều kĩ năng khác cần thiết cho công tác trong tương lai. Nâng cao hiệu quả công tác NCKH nói chung và NCKH của HV nói riêng là nhằm thực hiện kết hợp NCKH với đào tạo. Đó là xu hướng trong phát triển giáo dục đại học của các nước tiên tiến trên thế giới. Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [2] Học viện An ninh nhân dân (2013). Đề án phát triển Học viện An ninh nhân dân thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của ngành Công an. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2013). Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa XI). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [5] Đảng ủy Công an Trung ương (2014). Nghị quyết số 16-NQ/ĐUCA ngày 05/3/2014 về công tác khoa học Công an trong tình hình mới. [6] Đặng Vũ Hoạt - Hà Thị Đức (1992). Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục (Tài liệu dùng cho sinh viên và cán bộ quản lí giáo dục, học viên cao học). NXB Giáo dục. [7] Học viện An ninh nhân dân (2006). Lịch sử Học viện An ninh nhân dân (1946-2006). NXB Công an nhân dân. [8] Học viện An ninh nhân dân (2002). Quy định về nghiên cứu khoa học của học viên Học viện An ninh nhân dân. [9] Học viện An ninh nhân dân (2012). Tổng kết công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên 2007-2012. Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Học viện An ninh nhân dân.
File đính kèm:
- giao_duc_phong_chong_bat_nat_hoc_duong_cho_hoc_sinh_cac_truo.pdf