Giáo dục đại học vì sự phát triển bền vững trong bối cảnh ngày nay
TÓM TẮT
Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3
mặt của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đáp ứng nhu cầu đời sống con
người trong hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương
lai. Giáo dục vì sự bền vững là một khái niệm gắn liền với Phát triển bền vững. Đây không những
là một nội dung mà còn là một yêu cầu trong giáo dục, khi mà ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài
nguyên không chỉ gây nguy hại đến con người và thiên nhiên mà còn làm tổn thất đến thế hệ tương
lai. Giáo dục bền vững ở nhiều nước phát triển đã được tiến hành nhiều năm qua. Bài viết này giới
thiệu một số hình thức tổ chức giáo dục đại học bền vững phù hợp với tình hình phát triển kinh tế
- xã hội ở Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo dục đại học vì sự phát triển bền vững trong bối cảnh ngày nay
72 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH NGÀY NAY Lê Thị Hiền* TÓM TẮT Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đáp ứng nhu cầu đời sống con người trong hiện tại mà không làm tổn hại đến khả nĕng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Giáo dục vì sự bền vững là một khái niệm gắn liền với Phát triển bền vững. Đây không những là một nội dung mà còn là một yêu cầu trong giáo dục, khi mà ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên không chỉ gây nguy hại đến con người và thiên nhiên mà còn làm tổn thất đến thế hệ tương lai. Giáo dục bền vững ở nhiều nước phát triển đã được tiến hành nhiều nĕm qua. Bài viết này giới thiệu một số hình thức tổ chức giáo dục đại học bền vững phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam Từ Khóa: giáo dục đại học, phát triển bền vững, bối cảnh ngày nay. HIGHER EDUCATION FOR SUSTAINABLE DEVELOPMENT IN TODAY’S CONTEXT ABSTRACT Education for sustainability is a deinition closely attached to Sustainable Development. This is not only a content but also a requirement in education while environmental pollution and resource depletion not only harm human as well as nature but also affect future generations. Education for sustainable development in developed countries have been conducted for years. This article presents some forms of sustainable education in some institutions that can be applicable for the situation of social- economic development in Viet Nam. Keywords: education, sustainable development, in today’s context. * ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương 1. GIÁO DỤC VÌ SỰ BỀN VỮNG Phát triển bền vững là một khái niệm có từ khá lâu. Vào những nĕm 70 của thế kỷ XX, quan niệm thường thiên về sự giàu có và tổng hợp sản phẩm xã hội. Nĕm 1980, “Chiến lược bảo tồn thế giới” do chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) và quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF) đưa ra đã đề cập đến thuật ngữ “phát triển bền vững”, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh nó ở góc độ bền vững sinh thái bảo tồn tài nguyên sinh vật. Nĕm 2002, hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững được tổ chức tại Johannesburg (Nam Phi) đánh dấu mốc quan trọng của loài người trong nỗ lực tiến tới mục 73 Giáo dục đại học . . . tiêu phát triển bền vững toàn cầu, lúc này thì khái niệm phát triển bền vững đã được hiểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Trong khái niệm phát triển bền vững, không thể tách rời được ba thành tố là xã hội, môi trường và kinh tế, ẩn sau chúng là vĕn hóa, được xem như là nhân tố nội hàm của ba nhân tố này. Giáo dục vì sự phát triển bền vững là đề ra một hướng đi mới về giáo dục và học tập cho tất cả mọi người. Nó được dựa trên những giá trị nguyên tắc và thực tiễn cần thiết để đáp ứng hiệu quả những thách thức hiện tại và tương lai. Nội dung về giáo dục vì sự phát triển bền vững bao gồm: các nội dung về vĕn hóa – xã hội gồm có quyền con người, hòa bình và an ninh, bình đẳng giới, đa dạng vĕn hóa và hiểu biết về giao thoa vĕn hóa, sức khỏe, HIV/ AIDS, thể chế; các nội dung về môi trường gồm có: nguồn tài nguyên thiên nhiên, thay đổi khí hậu, phát triển nông nông, đô thị hóa bền vững, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai; các nội dung về kinh tế bao gồm: giảm nghèo, tinh thần và trách nhiệm học tập, kinh tế thị trường, phát triển bền vững và nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Liên Hợp Quốc đã công bố 2005 – 2015 là thập kỷ của nền giáo dục vì sự Phát triển bền vững (Education for Sustainable Development), gọi tắt là Giáo dục bền vững (Sustainability Education). Giáo dục bền vững được định nghĩa là quá trình học dẫn đến kết quả là hình thành nơi người học khả nĕng giải quyết vấn đề, trình độ hiểu biết về khoa học và xã hội và những hành động hợp tác cần thiết để đảo bảo cho một xã hội công bằng, thịnh vượng và môi trường trong lành. Giáo dục bền vững muốn phá bỏ lối giáo dục truyền thống như: học theo môn học và ủng hộ lối học kết hợp liên ngành; học theo giá trị; học có tư duy chứ không học thuộc lòng; tiếp cận đa phương pháp, đa hình thức: thơ, kịch, vẽ, tranh luận; tham gia vào việc ra quyết định; tiếp cận thông tin địa phương phù hợp vẫn hơn thông tin cấp quốc gia. Giáo dục môi trường và giáo dục bền vững cùng có những tính chất giống nhau như Bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống và ổn định xã hội; đồng thời lại có những điểm khác biệt như: Giáo dục bền vững chú trọng đến việc sử dụng tài nguyên một cách khôn ngoan để không gây tai hại cho các thế hệ tương lai chứ không chỉ chú ý đến những tác động tiêu cực trên môi trường. Ngoài ra Giáo dục bền vững còn nhấn mạnh đến thể chế chính trị và kinh tế, ví dụ: chất lượng cuộc sống, dân chủ, an sinh toàn cầu. Một trường học bền vững chính là trường học đặt trọng tâm trên việc học hỏi từ cộng đồng, trong đó, trẻ con, người lớn và cộng đồng giao lưu và học hỏi cùng nhau.Vì vậy, Giáo dục vì sự bền vững khác với giáo dục môi trường truyền thống ở chỗ nhấn mạnh đến những vấn đề xã hội phức tạp và đòi hỏi công dân phải có các kỹ nĕng tư duy phê phán, kỹ nĕng hợp tác, tham gia và hành động. Khảo sát các chỉ số về Phát triển bền vững do Liên Hợp Quốc đề ra, về ba mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường, chúng ta dễ nhận thất những vấn đề được đề cập nhiều đối với các nước phát triển là: nĕng lượng, khí hậu toàn cầu nóng lên, rác thải. Đối với các nước phát triển thì nhấn mạnh đến: dân số, ô nhiễm môi trường, phá rừng, phát triển con người. Hiện nay, các trường đại học ở nước ta nói chung chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề giáo dục về sự bền vững cho sinh viên. Tuy nhiên, với xu thế phát triển chung của thế giới về phát triển bền vững thì việc vạch ra một chiến 74 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật lược nhằm đưa nội dung giáo dục bền vững vào chương trình học, bên cạnh các nội dung giáo dục dân số, giáo dục môi trường là hết sức cần thiết. Vậy để tiếp cận mục tiêu giáo dục bền vững trong trường Đại học, bên cạnh nội dung, chương trình, tài liệu, giáo trình chúng ta cần triển khai những phương pháp và các hình thức tổ chức dạy và học như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội và những đặc điểm về điều kiện môi trường của nước ta? 2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC GIÁO DỤC BỀN VỮNG 2.1. Giáo dục bền vững qua môn học qua các buổi hội thảo, tập huấn Qua nhiều phân môn khác nhau, các kiến thức về phát triển bền vững, những chỉ dẫn thực hiện cách sống bền vững trong đời sống hàng ngày về vấn đề sử dụng nĕng lượng, mua sắm, đi lại, rác thải và phế liệu, được truyền đạt cho sinh viên dưới nhiều hình thức: - Lồng ghép vào tiết học. - Lập các bảng thông tin hay các áp phích đặt gần hành lang, lối đi trong trường - Tổ chức hội thảo Khi lồng ghép vào tiết học, không chỉ đơn thuần giáo viên trình bày, mà còn cần tổ chức các hoạt động tích cực cho người học (thảo luận, thuyết trình, đóng vai,) hoặc sinh viên tự tay sử dụng các dụng cụ đo đạc các chỉ số sử dụng nĕng lượng. Hội thảo được tổ chức với sự giúp đỡ của các đơn vị sẽ có khả nĕng cung cấp miễn phí các tài liệu tham khảo cho người tham dự, không chỉ là các thông tin về chính những nội dung trong buổi hội thảo, mà còn bao gồm cả những thông tin về bất cứ lĩnh vực nào của phát triển bền vững 2.2. Tổ chức sự kiện Sự kiện có thể được tổ chức vào một ngày đặc biệt: ngày môi trường Thế giới, ngày Đa dạng sinh học Thế giới, Đặc điểm của hình thức này là huy động mọi người cùng tham gia. Các hình tức tổ chức sự kiện như: - Tổ chức một hội chợ với nhiều gian hàng của các khoa, lớp, trưng bày các thông tin, các chỉ dẫn để sống bền vững hoặc bán các sản phẩm thân thiện với môi trường. Tùy quy mô của hội chợ, có thể liên kết với các đơn vị kinh doanh sản xuất theo mô hình bền vững (ví dụ đối với đơn vị sản xuất túi nylon tự hủy có thể phát miễn phí tại chỗ cho người tham dự). - Tổ chức cuộc thi đi bộ đồng hành (ví dụ đi bộ vì màu xanh của Trái Đất); tổ chức cuộc chạy đua xe đạp kêu gọi tiết kiệm nĕng lượng và giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. 2.3. Dự án, chiến dịch, cuộc thi: Các dự án, cuộc thi cần vạch ra các mục tiêu cụ thể và kế hoạch để đạt được mục tiêu một cách chi tiết, tỉ mỉ. Một dự án thường tiến hành trong suốt học kỳ. - Một dự án có thể nhận được sự tài trợ (từ doanh nghiệp hay một tổ chức Môi trường) thông qua một hợp đồng trong đó xác định rõ khi kết thúc dự án, người tham gia phải hoàn thành những chỉ tiêu hợp đồng đề ra, ví dụ % số lượng điện đã tiết kiệm (giảm tiêu thụ) được. - Chiến dịch hành động cá nhân. Ví dụ “Chiến dịch 3 – 2 – 1” nhắm vào mục tiêu tiết kiệm nĕng lượng và hạn chế rác thải. Cụ thể, mỗi cá nhân tham gia cam kết: Thực hiện 3 hành động mỗi ngày như rút phích cắm điện ra khỏi ổ điện khi không sử dụng; Tắt đèn khi không sử dụng; Nhặt phế liệu để tái chế; Thay thế bóng đèn thông thường bằng bóng đèn compact. Hoặc mang theo hai túi đựng đồ khi đi mua sắm (không dùng túi nylon). Bên cạnh các hành động cá nhân, một số hoạt động khác 75 Giáo dục đại học . . . huy động sự thi đua tập thể, sẽ góp phần nâng cao nhận thức hữu hiệu hơn, như các chiến dịch giảm rác trong khuôn viên trường (phòng làm việc, lớp học, kí túc xá, cĕn tin. Qui mô chiến dịch có thể khác nhau, nhưng cần có đánh giá, dựa trên các tiêu chí. Ví dụ: % lượng giác có thể tái chế được; Số lượng phế liệu thu gom được; Lượng chất thải rắn/ người ít nhất; Lượng rác tái chế được lớn nhất. - Các nhóm sinh hoạt định kỳ, ví dụ câu lạc bộ sinh thái. Các thành viên của nhóm họp mặt hàng tháng hay nửa tháng, để trao đổi tiến độ thi đua. Hoạt động của câu lạc bộ đa dạng, từ thu gom phế liệu; hoặc khảo sát tình hình sử dụng nĕng lượng trong trường; đến thiết kế các tờ bướm phát cho cộng đồng và gia đình mình. 2.4. Hướng dẫn cho học sinh cấp dưới Trong giáo dục bền vững, việc tổ chức chương trình ngoại khóa, trong đó người học lớp trên dạy lại cho cấp dưới không những giúp nâng cao kiến thức, nhận thức, kĩ nĕng cho người học mà còn giúp họ hiểu biết sâu sắc hơn.Trong việc tiếp cận với các học sinh nhỏ hơn này, các sinh viên có thể tiến hành nhiều hoạt động phong phú, nhưng vẫn phải lấy học sinh làm trung tâm. Người dạy (Sinh viên) có thể tổ chức các hoạt động như: - Thuyết trình (Sinh viên) - Trò chơi để lồng ghép giáo dục về nhận thức, thái độ đối với sự bền vững - Thi đố về những kiến thức về phát triển bền vững - Trình diến: hát, vẽ, đóng kịch, - Thảo luận, tranh luận 2.5. Hành động vì cộng đồng Hoạt động này có thể tổ chức riêng hoặc kết hợp vào các chiến dịch của Trường, Khoa, Đoàn Thanh niên. Ví dụ thu gom sách giáo khoa tặng cho học sinh vùng nghèo; thu gom các thiết bị, dụng cụ đồ gia dụng không cần đến (nhưng còn dùng được) cho “ngày hội hàng cũ giá rẻ” vào dịp đầu nĕm học, chủ yếu cho các bạn ở khu tập thể hoặc ở trọ. Hoặc góp phần cải thiện môi trường như vớt rác trên ao hồ, kênh rạch. Ngoài ra, nhà ĕn liên kết với các hộ nông dân sản xuất rau sạch để mua trực tiếp các thực phẩm thân thiện môi trường, vừa giảm phí trung gian, vừa kích thích tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường. 2.6. Tham quan, thực địa Nghe và nhìn chiếm một lượng khả nĕng lưu giữ thông tin khá lớn trong quá trình dạy và học. Do đó, người học cần được “mắt thấy, tai nghe” trực tiếp ngoài thiên nhiên hoặc cơ sở sản xuất, dịch vụ. Ở mỗi khóa học và mỗi ngành học, phân phối chương trình đều có thiết kế một học phần tham quan thực tế cho sinh viên. Để thúc đẩy Giáo dục bền vững, các khoa, bộ môn cần đưa vào chuyến đi này những địa điểm điển hình về phát triển bền vững. Ví dụ tham quan nhà máy sản xuất phân hữu cơ từ rác thải; nhà máy sản xuất thực phẩm từ nguồn thịt gia súc không chứa các chất độc hại (chất kích thích tĕng trưởng, chất tĕng trọng,) hay nhà máy sản xuất các tấm pa – nô để tạo ra nĕng lượng từ Mặt trời, hoặc tìm hiểu các hộ nông dân với qui trình sản xuất rau sạch; qui trình sản xuất và sử dụng biogas 2.7. Thực hiện các mẫu hình bền vững tại trường Giáo dục bền vững cho sinh viên cần thể hiện sự bền vững đó qua cơ sở vật chất của trường học (trường học xanh, trường học thân thiện), ngoài ra nhân viên các phòng, ban cần được hướng dẫn cách tiết kiệm nĕng lượng và giảm rác thải khi sử dụng chúng (sử dụng máy vi tính, máy in, máy chiếu, đèn, quạt, máy lạnh, giấy,). 76 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Để tiết kiệm nĕng lượng và sử dụng nĕng lượng hiểu quả, cần trang bị: - Các máy móc, thiết bị có dán nhãn ngôi sao nĕng lượng, như: máy vi tính, máy lạnh, máy chiếu, điện thoại hoặc các máy móc được cài đặt thiết bị kiểm soát điện nĕng, bấm giờ ngắt điện (giúp sử dụng nĕng lượng ít hơn). - Các thiết bị sử dụng nước trong nhà ĕn, kí túc xá theo hướng tiết kiệm, thay các bóng đèn với điện nĕng vừa đủ (ví dụ 18W thay vì 26W). - Hệ thống cửa sổ của các phòng bố trí sao cho đón được ánh sáng tự nhiên. - Sử dụng thùng rác có ngĕn để phân loại rác tại nguồn - Sử dụng thực phmẩ hữu cơ càng nhiều càng tốt, 3. KẾT LUẬN Giáo dục bền vững là một quá trình lâu dài, đi từ nhận thức đến kiến thức, rồi đến thái độ và hành động. Một trong những con đường thay đổi thói quen, hành vi, để xây dựng một cuộc sống bền vững là giáo dục. Từ cấp tiểu học đến đại học, từ ngành tự nhiên đễn xã hội, từ nước đang phát triển đến nước phát triển tất cả mọi người đều cần được dạy cho biết cách sống hài hòa với thiên nhiên và không làm biến đổi thiên nhiên, và quan trọng hơn, là con người phải chọn lựa cách sống bền vững. Trong quá trình phấn đấu trở thành những trường đại học có chương trình đào tạo tiên tiến, các trường đại học ở nước ta nói riêng cần thiết xem giáo dục bền vững không những là một nội dung giáo dục mà còn là trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2004, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam [2]. Chương trình hành động quốc gia (2006 – 2014), về Thập kỷ giáo dục vì sự phát triển bền vững [3]. Trương Quang Học, 2012, Việt Nam thiên nhiên, môi trường và phát triển bền vững, Khoa học kỹ thuật, Hà Nội [4]. Lê Vĕn Khoa (chủ biên), 2009, Môi trường và phát triển bền vững, Giáo dục, Hà Nội. [5]. Phạm Thị Oanh, 2013, Mối quan hệ con người - tự nhiên và phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Chính trị quốc gia, Hà Nội. [H]. Hồ Bá Thâm, 2012, Vĕn hóa với phát triển bền vững, Vĕn hóa – thông tin, Hà Nội
File đính kèm:
- giao_duc_dai_hoc_vi_su_phat_trien_ben_vung_trong_boi_canh_ng.pdf