Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng

Bài viết tập trung làm rõ vị trí, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân. Đây là một động lực quan trọng của

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đánh giá tổng quan

thực trạng kinh tế tư nhân sau hơn hai năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa XII (Nghị quyết số

10-NQ/TW), tác giả đề xuất bốn biện pháp chính nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa

của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian tới.

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng trang 1

Trang 1

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng trang 2

Trang 2

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng trang 3

Trang 3

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng trang 4

Trang 4

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 6640
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân sau nghị quyết Trung ương V khóa XII của Đảng
, trên cả hai góc 
độ: chủ trương, ch nh sách, đường lối và thực 
hiện chủ trương, đường lối đó trên thực tế. 
2.2. Thực trạng kinh tế tư nhân sau hơn 02 năm 
thực hiện Nghị quyết 10 
Sau hơn hai năm thực hiện Nghị quyết số 10-
NQ/TW, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được 
tiếp thêm sức mạnh để gánh vác sứ mệnh là một 
động lực quan trọng phát triển kinh tế đất nước: 
Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân đã góp 
ph n lan tỏa rộng rãi tinh th n khởi nghiệp trong 
xã hội và trong rất nhiều lĩnh vực. Xu hướng 
phát triển các mô hình kinh doanh khởi nghiệp 
sáng tạo diễn ra sôi động, hiện có hơn 3.000 
công ty khởi nghiệp sáng tạo (start-up) đang hoạt 
động, trong đó có nhiều doanh nghiệp thành 
công. Thương hiệu quốc gia Việt Nam ngày càng 
phát triển trong những ngành, lĩnh vực có nhiều 
tiềm năng, thế mạnh như xây dựng, chế biến, chế 
tạo, công nghiệp ô tô, vận tải hàng không, tài 
ch nh, ngân hàngSố lượng doanh nghiệp thành 
lập mới và số lượng doanh nghiệp tạm ngừng 
hoạt động quay trở lại hoạt động tăng lên: Chỉ 
trong 2 năm (2017, 2018) đã có g n 259.000 
doanh nghiệp được thành lập mới (cảng quốc tế 
Vân Đồn, Vinfast, Bamboo Airway) và 60.458 
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trở lại [7]. 
Thứ hai, kinh tế tư nhân góp ph n thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tế nhanh và đóng góp lớn trong 
GDP. Khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp 
hơn 40% GDP cao hơn khu vực doanh nghiệp 
nhà nước và doanh nghiệp FDI, đóng góp 
khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 
80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và 
dịch vụ, 60% tổng lượng hàng hóa vận chuyển. 
Kinh tế tư nhân có xu hướng vượt khu vực kinh 
tế nhà nước để trở thành thành ph n kinh tế thực 
hiện vốn đ u tư toàn xã hội lớn nhất. Mỗi năm 
khu vực kinh tế tư nhân tăng đều đặn xấp xỉ 
10%/năm, hơn 45 triệu người đang làm việc 
trong khối doanh nghiệp tư nhân [7]. Thứ ba, 
kinh tế tư nhân góp ph n to lớn trong tạo việc làm, 
huy động nguồn vốn và đóng góp ngân sách. Khu 
vực doanh nghiệp tư nhân tạo nhiều việc làm mới, 
số lượng lao động đang làm việc trong khu vực 
kinh tế này chiếm đa số lực lượng lao động và 
ngày càng tăng. Năm 2019, số lao động đang làm 
việc trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm 83,3% 
tổng số lao động cả nước, tương đương g n 45,2 
triệu người. Trong 2 năm (2017, 2018), số doanh 
nghiệp thành lập mới đã tạo g n 2,3 triệu việc làm 
mới; số doanh nghiệp thành lập mới có tổng số 
vốn đăng ký là 2,77 triệu tỷ đồng; khu vực kinh tế 
tư nhân chiếm tỷ trọng 25,3 - 26,3% tổng kim 
ngạch xuất khẩu hàng hóa và chiếm tỷ trọng 34,7 
- 34,8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa. Thu 
ngân sách nhà nước từ sản xuất kinh doanh của 
khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh, trên 
15%/năm, cao khoảng gấp 2 l n khu vực kinh tế 
có vốn đ u tư nước ngoài [7]. Năm 2018 là năm 
đ u tiên thu ngân sách nhà nước từ sản xuất kinh 
doanh của khu vực kinh tế tư nhân vượt khu vực 
có vốn đ u tư nước ngoài và khu vực doanh 
nghiệp nhà nước. 
Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực kinh tế 
tư nhân vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Khu 
vực kinh tế tư nhân vẫn chưa phát huy hết tiềm 
năng của mình để thực sự là một động lực quan 
trọng của nền kinh tế. Nhìn chung, môi trường 
kinh doanh ở nước ta chưa được cải thiện vững 
chắc, thậm chí có dấu hiệu chững lại. Thực trạng 
đó đặt ra những vấn đề c n được giải quyết để 
thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, cụ thể: 
Thứ nhất, môi trường kinh doanh trong nước 
chưa thực sự thuận lợi. Còn nhiều rào cản đối với 
phát triển kinh tế tư nhân chưa được tháo gỡ, cơ 
chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát 
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 11 (2019) 
11 
triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Ví dụ, 
chính sách thuế cho đến nay vẫn chưa có những 
biện pháp hữu hiệu để nuôi dưỡng nguồn thu, tạo 
đà cho doanh nghiệp phát triển. Hiện nay, việc thu 
thuế áp dụng ngay cho doanh nghiệp có doanh 
thu, rất khó khuyến khích doanh nghiệp kinh 
doanh bài bản, bởi vì doanh nghiệp tư nhân còn 
thiếu và yếu về nhiều mặt, nhưng vẫn chịu mức 
thuế chung như các doanh nghiệp lớn. 
Thứ hai, một bộ phận không nhỏ doanh 
nghiệp không có khả năng tồn tại, đứng vững 
cạnh tranh hoặc hoạt động kém hiệu quả. Trong 
2 năm (2017, 2018) có 151.204 doanh nghiệp 
tạm ngừng hoạt động; tỷ lệ số doanh nghiệp tạm 
ngừng hoạt động so với số doanh nghiệp thành 
lập mới l n lượt là 47,73% và 69,05%; g n 50% 
doanh nghiệp của tư nhân kinh doanh thua lỗ. Tỷ 
lệ doanh nghiệp có khả năng tồn tại thấp ảnh 
hưởng đến thực hiện mục tiêu đạt ít nhất 1 triệu 
doanh nghiệp đến năm 2020. Đến năm 2018, cả 
nước mới có g n 715.000 doanh nghiệp [7]. 
Ngoài ra, vẫn còn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa 
các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà 
nước, giữa doanh nghiệp tư nhân trong nước và 
doanh nghiệp FDI. 
Thứ ba, năng lực hội nhập kinh tế quốc tế 
của doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế, chưa đáp 
ứng yêu c u tham gia các chuỗi giá trị sản xuất 
khu vực và toàn c u. 
Ph n lớn các doanh nghiệp tư nhân ở Việt 
Nam đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng toàn 
c u nhưng là cung ứng thay thế, không phải sản 
xuất. Thực trạng này là do thiếu vắng các doanh 
nghiệp quy mô vừa, có tính hiệu quả kinh tế theo 
quy mô để tham gia các chuỗi giá trị toàn c u. 
Trên thực tế, hợp tác kinh doanh của doanh 
nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp FDI chủ yếu 
ở khâu tiếp thị bán hàng (29,5%) và sản xuất 
hàng hóa dịch vụ (24,8%) [6]; còn khâu phát 
triển sản phẩm mới g n như không có sự hợp tác; 
mối liên kết ngược/xuôi giữa 2 khối doanh 
nghiệp trong nước và FDI đang rất hạn chế, 
không tạo được hiệu ứng lan tỏa. Nhà nước còn 
thiếu các chính sách khuyến khích và hạ t ng hỗ 
trợ liên kết cũng như việc đô thị hóa chưa đạt 
hiệu quả, chưa giúp phát triển các trung tâm kết 
nối kinh tế và sáng tạo. 
2.3. Những giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển 
kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết 10 
Việt Nam đặt mục tiêu ―Phấn đấu có ít nhất 
01 triệu doanh nghiệp năm 2020, hơn 1,5 triệu 
doanh nghiệp năm 2025 và có t nhất 02 triệu 
doanh nghiệp năm 2030. Phấn đấu tăng tỷ 
trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào 
GDP để đạt khoảng 50% GDP năm 2020, 
khoảng 55% GDP năm 2025 và 60-65% GDP 
năm 2030‖ [5]. Để đạt mục tiêu đề ra cũng như 
tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư 
nhân trở thành động lực quan trọng trong phát 
triển nền kinh tế, c n thực hiện đồng bộ các giải 
pháp chủ yếu sau: 
Một là, tiếp tục thay đổi nhận thức về kinh 
tế tư nhân, tạo dựng môi trường đầu tư, kinh 
doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. 
Tạo sự thống nhất nhận thức trong xã hội về 
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát 
triển kinh tế tư nhân. Xây dựng cơ chế, chính 
sách định hướng sự phát triển, hoàn thiện hệ 
thống các văn bản pháp luật về kinh tế tư nhân. 
Sửa đổi một số cơ chế, ch nh sách đào tạo, tiền 
lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội Phát huy 
thế mạnh và tiềm năng to lớn của kinh tế tư nhân 
trong phát triển kinh tế - xã hội, đi đôi với khắc 
phục có hiệu quả những mặt trái, những tiêu cực 
phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tư 
nhân. Mở rộng khả năng tham gia thị trường và 
đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh của 
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường, tạo 
điều kiện để tư nhân tiếp cận các nguồn lực để 
phát triển, đặc biệt là nguồn lực đất đai, nguồn 
vốn, lao động. Tạo môi trường để kinh tế tư nhân 
tiếp cận khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới 
sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản 
xuất, kinh doanh. Thực hiện ba khâu đột phá 
chiến lược: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập 
môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách 
hành chính; phát triển nhanh nguồn nhân lực, 
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung 
vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, 
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với 
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; xây 
dựng hệ thống kết cấu hạ t ng đồng bộ, với một 
số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống 
giao thông và hạ t ng đô thị lớn. 
Hai là, tiếp tục tăng cường liên kết giữa 
doanh nghiệp tư nhân và các loại hình doanh 
nghiệp khác, đáp ứng yêu cầu tham gia các 
chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu. Tăng 
cường chất lượng nguồn nhân lực, rút ngắn 
khoảng cách về công nghệ, nâng cao năng lực 
cạnh tranh. Chính phủ c n nhanh chóng hiện 
thực hóa các ch nh sách thúc đẩy công nghiệp hỗ 
trợ, đồng thời, khi xây dựng khu công nghiệp 
riêng cho khu vực FDI c n t nh đến sự kết nối 
với các khu, cụm công nghiệp dành cho các 
doanh nghiệp vừa và nhỏ. C n thúc đẩy các hoạt 
động phát triển công nghệ t m trung phù hợp với 
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 11 (2019) 
12 
trình độ phát triển hiện tại, như thiết lập các cụm 
liên kết ngành sản xuất linh kiện đòi hỏi quy mô 
đ u tư vốn vừa phải và độ tinh vi công nghệ ở 
mức trung bình. Việt Nam cũng c n nắm bắt 
được làn sóng khởi nghiệp của các doanh nghiệp 
công nghệ và thúc đẩy các ―hệ sinh thái khởi 
nghiệp‖ nhằm giúp các doanh nhân vượt qua rào 
cản về vốn, rủi ro, nguồn nhân lực để hiện 
thực hóa các ý tưởng liên quan đến công nghệ và 
đổi mới sáng tạo. Chính phủ c n tập trung vào 
việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, đẩy 
mạnh kết nối một cách công bằng để các doanh 
nghiệp được cạnh tranh bình đẳng. Hình thành 
các khu công nghiệp, khu chế xuất riêng biệt, 
tách biệt các doanh nghiệp FDI có thể giúp nâng 
cao hiệu quả hoạt động và xuất khẩu. 
Ba là, xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa 
doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân với các 
loại hình doanh nghiệp khác. Chính phủ c n tiếp 
tục các giải pháp tháo gỡ khó khăn về thuế cho 
doanh nghiệp nhỏ và vừa, sửa đổi, bổ sung và bãi 
bỏ các quy định về cấp phép kinh doanh, xuất 
nhập khẩu, quản lý thị trường, tạo lập môi 
trường đ u tư, kinh doanh thuận lợi cho phát 
triển kinh tế tư nhân ở tất cả các ngành và lĩnh 
vực mà pháp luật không cấm. Tháo gỡ các ―nút 
thắt‖ như khả năng tiếp cận thị trường, tiếp cận 
nguồn lực, tiếp cận thông tin và các chi phí 
không chính thức, chi phí kinh doanh, chi phí 
tuân thủ Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công 
chức c n có sự đột phá trong tư duy và hành 
động, kiên trì đổi mới, hoàn thiện và tổ chức thực 
hiện thật tốt pháp luật, cơ chế, chính sách phù 
hợp với quy luật thị trường và thông lệ, chuẩn 
mực quốc tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, cải 
cách mạnh mẽ các thủ tục hành ch nh rườm rà. 
Tạo ra ―hệ sinh thái‖ đổi mới sáng tạo, tạo điều 
kiện thuận lợi nhất để có hiệu quả các quỹ đ u tư 
rủi ro nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp. Hoàn thiện 
khuôn khổ pháp luật, điều chỉnh các nguồn lực 
của đất nước như đất đai, tài nguyên, môi trường, 
vốn và phải đảm bảo sao cho kinh tế tư nhân 
được tiếp cận những nguồn lực này bình đẳng 
với các thành ph n khác. Xóa bỏ bất bình đẳng 
công - tư, thu hồi nguồn lực đang sử dụng lãng 
ph để phân bổ lại nhằm cải thiện năng suất, các 
nguồn lực được chuyển giao cho các thành ph n 
kinh tế để tối ưu hóa. Đoạn tuyệt với quy hoạch 
phi thị trường; chống cơ chế xin - cho, ban phát, 
chống lợi ch nhóm 
Bốn là, hỗ trợ về thông tin và đào tạo, đẩy 
mạnh cải cách thể chế gắn với phát triển nguồn 
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng 
cao. Hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân có đ y đủ 
thông tin về nghề nghiệp kinh doanh và những 
thông tin liên quan. Tổ chức đào tạo cho doanh 
nhân cách quản lý, hỗ trợ đào tạo công nhân có 
tay nghề trong môi trường làm việc thực tế tại 
doanh nghiệp, trong các trường dạy nghề. Trong 
hệ thống giáo dục, học sinh học hết lớp 9 có thể 
chuyển sang học trung học chuyên nghiệp nghề 
để đi làm. Xây dựng tiêu chuẩn đào tạo nguồn 
nhân lực chất lượng cao, có năng lực hành nghề 
chuyên môn, kỹ năng mềm, đặc biệt kỹ năng 
giao tiếp và làm việc nhóm, kỷ luật đạo đức làm 
việc, trách nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm lao 
động. Tập trung xây dựng thể chế, cơ chế, chính 
sách phát triển giáo dục nghề nghiệp phù hợp với 
xu thế hội nhập; hoàn thiện quy hoạch mạng lưới 
cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nâng cao chất lượng 
dạy nghề, tiếp cận các chuẩn khu vực và thế giới. 
Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) c n có giải pháp đột 
phá mở đường cho các hộ kinh doanh và các 
doanh nghiệp nhỏ có thể lớn lên. Dùng một luật 
để sửa nhiều luật về doanh nghiệp và môi trường 
kinh doanh, khắc phục nhanh những điểm nghẽn 
về thể chế, bảo đảm sự nhất quán trong khung 
khổ pháp luật hiện nay về doanh nghiệp và đ u 
tư kinh doanh như chuỗi các Nghị quyết 19 và 
Nghị quyết 02 của Chính phủ. 
3. Kết luận 
Những kết quả đạt được bước đ u của khu 
vực kinh tế tư nhân đã khẳng định t nh đúng đắn 
của Nghị quyết 10-NQ/TW, khẳng định quan 
điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta về 
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực 
quan trọng của nền kinh tế là hoàn toàn đúng 
đắn. Tuy vậy, những kết quả trên chỉ là bước 
đ u, thực tế còn rất nhiều tồn tại, khó khăn đang 
kìm hãm sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân. 
Để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa, c n 
thực hiện đồng bộ, toàn diện nhiều giải pháp, đưa 
khu vực kinh tế tư nhân cũng như nền kinh tế 
Việt Nam phát triển, sớm hoàn thành mục tiêu 
đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại./. 
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 11 (2019) 
13 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002). Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX, 
tr.41. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tr.83. Hà Nội: Nhà 
xuất bản Chính trị quốc gia. 
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr.110. Hà Nội: 
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.108. Hà Nội: 
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2017). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương khóa XI, 
tr.89 - 90, 95. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng. 
[6]. Diễn đàn phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam 2019. (2019). Báo cáo 02 năm thực hiện Nghị quyết 
Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, 4/2019. 
[7]. Tổng cục Thống kê. (2019). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2019, Hà Nội, ngày 
28/9/2019. 
Thông tin tác giả: 
1. Nguyễn Quang Bình 
- Đơn vị công tác: Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, Trường Sĩ quan 
Chính trị, Bộ Quốc phòng 
- Địa chỉ email: binhcnxhkh@gmail.com 
2. Phạm Văn Định 
- Đơn vị công tác: Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, Trường Sĩ quan 
Chính trị, Bộ Quốc phòng 
Ngày nhận bài: 12/11/2019 
Ngày nhận bản sửa: 16/12/2019 
Ngày duyệt đăng: 31/12/2019 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_tiep_tuc_day_manh_phat_trien_kinh_te_tu_nhan_sau_n.pdf